Tin chỉ đạo điều hành
 
Ngày 9/1, Hội người mù tỉnh Bình Dương đã tổ chức tổng kết hoạt động năm 2008.
 
 

Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bình Dương vừa tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2008-2013 bầu ra Ban Chấp hành chính thức, thông qua điều lệ hoạt động, quy chế làm việc.

 
 
Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bình Dương vừa tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 2008-2013 bầu ra Ban Chấp hành chính thức, thông qua điều lệ hoạt động, quy chế làm việc.
 
 
 
 
  
  
Tóm tắt
Nội dung
  
  
  
Tin liên quan
  
  
Phân loại
  
  
  
  
  
  
  
  
  
  
Lao động nông thôn được vay lãi suất 0% để học nghềLao động nông thôn được vay lãi suất 0% để học nghề
Chính phủ sẽ chi hơn 23.140 tỉ đồng trong hơn 10 năm với mục tiêu: Trung bình mỗi năm, đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, nâng tỉ lệ lao động nông thôn được đào tạo từ 20% (năm 2010) lên 50% (năm 2020)
       Nông dân huyện Củ Chi- TPHCM làm nghề đan lát mây tre
                  để tăng thu nhập hộ gia đình. Ảnh: N. Hữu
Ngày 25-3, dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Văn phòng Chính phủ cùng với các bộ, ngành tổ chức hội nghị trực tuyến với 21 địa phương về đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020.

Bộ LĐ-TB-XH dự báo lao động nông thôn và lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần: Năm 2010 có khoảng 34,2 triệu lao động, đến năm 2015, con số này giảm còn 33,1 triệu và năm 2020 chỉ còn 32,1 triệu.

Nhiều lao động ở các vùng nông thôn chưa mấy mặn mà với việc học nghề. Ông Võ Duy Khương, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng, lý giải học xong, học viên không có việc làm hoặc có việc làm, làm ra sản phẩm nhưng không tiêu thụ được.

Ông Đàm Hữu Đắc, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, dự báo từ nay đến năm 2020, cung cấp lao động cho khoảng 2.075 làng nghề, mỗi năm cần đào tạo nghề thêm khoảng 350.000 - 400.000 lao động. Tương tự, các vùng chuyên canh cây nguyên liệu cũng cần khoảng 96.000 người qua đào tạo nghề. Một số tập đoàn, tổng công ty lớn có nhu cầu khoảng 800.000 lao động... Trong khi đó, số lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có nhu cầu học nghề khoảng 50.000 người mỗi năm.

Đề án này sẽ tổ chức dạy nghề trình độ sơ cấp và dạy nghề dưới 3 tháng cho lao động nông thôn trong độ tuổi lao động có nhu cầu học nghề và đủ điều kiện xét tuyển. Chính phủ sẽ chi hơn 23.140 tỉ đồng trong hơn 10 năm với mục tiêu: Trung bình mỗi năm, đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động nông thôn, nâng tỉ lệ lao động nông thôn được đào tạo từ 20% (năm 2010) lên 50% (năm 2020).

Một trong những giải pháp đặc biệt trong đề án này là khuyến khích thanh niên làm nông nghiệp. Cấp thẻ học nghề cho lao động nông thôn hiện đang được thí điểm tại Hà Nội. Tới đây, việc cấp thẻ này sẽ được triển khai trong toàn quốc. Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, ông Đào Xuân Học, cho biết mỗi lao động nông thôn đủ điều kiện sẽ được cấp thẻ trong thời gian 5 năm để học nghề. Trong thẻ học nghề cũng thể hiện các ngành nghề sẽ học như: sản xuất nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp... tùy theo từng đối tượng sẽ có các chế độ khác nhau. Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà nước là cơ quan phát thẻ và có trách nhiệm quản lý.

Sau khi nghe ý kiến từ các địa phương, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân giao việc đào tạo nghề cho nông dân sẽ do Bộ NN-PTNT chủ trì; đào tạo nghề phi nông nghiệp giao do Bộ LĐ-TB-XH; Bộ Nội vụ đảm nhận đào tạo cán bộ, công chức địa phương. Việc kiểm tra, thực hiện triển khai chương trình được giao cho Hội Nông dân.

Bên cạnh đó, việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn chuyển từ đào tạo theo khả năng của học viên sang theo nhu cầu của xã hội, có cơ chế khuyến khích lao động nông thôn vay đi học với lãi suất 0% (cam kết học xong ở lại nông thôn, làm nông dân). Giáo viên dạy nghề sẽ được ở nhà công vụ. Một số tỉnh sẽ được chọn thí điểm dạy nghề lưu động.
Theo Nguyễn Quyết (www.nld.com.vn)
3/26/2009 9:11 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1763-Lao-dong-nong-thon-duoc-vay-lai-suat-0-de-hoc-ngheThông tin chỉ đạo, điều hành
Phân loại đường để tính giá cước đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình DươngPhân loại đường để tính giá cước đường bộ trên địa bàn tỉnh Bình Dương

​TTĐT - UBND tỉnh ban hành Quyết định số 146/QĐ-UBND​ về việc phân loại đường để tính giá cước đường bộ trên địa bàn tỉnh.​​​​

Theo đó, Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc: Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài chính; Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định.

Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/01/2025 và thay thế Quyết định số 117/QĐ-UBND ngày 14/01/2020 của UBND tỉnh.

Cụ thể bảng phân loại đường bộ các tuyến đường để tính giá cước vận chuyển tại Quyết định số 146/QĐ-UBND​.​​​

2/4/2025 3:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, giá cước đường bộ 424-phan-loai-duong-de-tinh-gia-cuoc-duong-bo-tren-dia-ban-tinh-binh-duonThông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Đồ án điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung TP.Dĩ An đến năm 2045Đồ án điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung TP.Dĩ An đến năm 2045

​TTĐT - UBND tỉnh ban hành Quyết định số 929/QĐ-UBND về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung tỷ lệ 1/10.000 TP.Dĩ An đến năm 2045.

Theo đó, phạm vi lập quy hoạch theo địa giới hành chính TP.Dĩ An với diện tích 6.010 hecta, gồm 07 phường: Dĩ An, Đông Hoà, Tân Đông Hiệp, Tân Bình, Bình An, Bình Thắng và An Bình.

Ranh giới tứ cận được xác định: Phía Bắc giáp TP.Tân Uyên; phía Nam giáp TP.Thủ Đức (TP.Hồ Chí Minh); phía Đông giáp TP.Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) và TP.Thủ Đức (TP.Hồ Chí Minh); phía Tây giáp TP.Thuận An.

Dĩ An là đô thị Dịch vụ – Giáo dục – Công nghiệp, Trung tâm đô thị đại học, đầu mối giao thông vùng; trong đó, công nghiệp phát triển theo hướng công nghệ cao.

Đến năm 2030, Dĩ An đạt tiêu chí đô thị loại I; đến năm 2045 là đô thị hoàn chỉnh, phát triển bền vững.

Quy mô dân số năm 2030 đạt khoảng 650.000 - 750.000 người; đến năm 2045 khoảng 800.000 - 900.000 người.

Dĩ An được chia thành 03 phân vùng phát triển:

Vùng đô thị phía Đông đường sắt Bắc - Nam là trung tâm chính trị văn hoá, xã hội, thương mại... của TP.Dĩ An; lấy trung tâm đô thị và Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh làm hạt nhân.

Vùng đô thị phía Tây đường sắt Bắc - Nam, phát triển gắn kết với đầu mối giao thông vùng; lấy khu vực ga đầu mối An Bình làm hạt nhân.

Vùng đô thị phía Bắc đường sắt TP.Hồ Chí Minh - Lộc Ninh và Trảng Bom – Hoà Hưng: Phát triển các trung tâm thương mại dịch vụ, dịch vụ du lịch và các khu ở hỗn hợp tích hợp đa chức năng theo mô hình TOD dọc theo tuyến Mỹ Phước Tân Vạn và đường sắt đô thị; lấy các trung tâm thương mại làm hạt nhân.

Giao UBND TP.Dĩ An có trách nhiệm tổ chức công bố quy hoạch, cắm mốc giới và quản lý giám sát việc thực hiện quy hoạch theo quy định.

Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng liên quan đề xuất các giải pháp quản lý triển khai thực hiện quy hoạch, lập kế hoạch đầu tư xây dựng, huy động vốn đầu tư để thực hiện các công trình hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, các công trình trọng điểm.

Quyết định số 929/QĐ-UBND​​

4/3/2025 11:00 AMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, Quy hoạch chung TP.Dĩ An, năm 2045713-do-an-dieu-chinh-tong-the-quy-hoach-chung-tp-di-an-den-nam-204FalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Treo Quốc kỳ và nghỉ Lễ kỷ niệm 76 năm Quốc khánh 02/9Treo Quốc kỳ và nghỉ Lễ kỷ niệm 76 năm Quốc khánh 02/9

​TTĐT - UBND tỉnh thông báo về việc treo Quốc kỳ và nghỉ lễ kỷ niệm 76 năm Ngày Quốc khánh 02/9.


​Theo đó, các công sở, trụ sở các cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp và các hộ nhân dân phải treo Quốc kỳ trong ngày 02/9/2021.​

Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp được nghỉ Lễ Quốc khánh 04 ngày, từ ngày 02/9/2021 đến hết ngày 05/9/2021. Trong đó 02 ngày nghỉ Lễ Quốc khánh và 02 ngày là ngày nghỉ hàng tuần.

Các cơ quan, đơn vị, lực lượng vũ trang, UBND các huyện, thị xã, thành phố, lãnh đạo các doanh nghiệp phải bố trí lực lượng trực gác, bảo vệ cơ quan đơn vị và khu phố, ấp; chủ động xử lý mọi diễn biến bất thường xảy ra trước, trong và sau các ngày lễ kỷ niệm, thực hiện nghiêm các quy định phòng, chống dịch, đồng thời báo cáo kịp thời các vấn đề đột xuất xảy ra về UBND tỉnh.

Trước các ngày lễ kỷ niệm, yêu cầu các cơ quan, đơn vị, UBND các huyện, thị xã, thành phố Thủ Dầu Một, các doanh nghiệp tổ chức làm vệ sinh sạch, gọn ở khu vực cơ quan, đơn vị mình, các đường giao thông, nơi công cộng và các khu phố, ấp (quá trình thực hiện phải đảm bảo yêu cầu phòng, chống dịch Covid-19).

Các sở, ban, ngành, đơn vị tổ chức vệ sinh, treo cờ tại trụ sở làm việc cũ hiện đơn vị mình đang quản lý để đảm bảo trang trọng và sạch gọn.​

Thông báo ​


8/25/2021 10:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtQuốc kỳ, Lễ kỷ niệm, 76 năm, Quốc khánh, 02/9932-treo-quoc-ky-va-nghi-le-ky-niem-76-nam-quoc-khanh-02-Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalseĐoan Trang
302.00
121,000
0.00
121000
0
Triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật”Triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật”
 
TTĐT - Ngày 31-3, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 938/KH-UBND Triển khai thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật” trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2015 (Đề án).
 
     
Theo đó, sẽ tổ chức triển khai, thực hiện Đề án với nội dung: tổ chức phổ biến pháp luật, xây dựng, phát hành, cung cấp các tài liệu pháp luật; tiếp tục nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ ở cơ sở, người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải viên tại địa bàn trọng điểm; tổ chức giao lưu, trao đổi kinh nghiệm; củng cố kiện toàn phát huy vai trò của các nhóm nòng cốt, tổ tự quản tham gia phổ biến giáo dục pháp luật; hướng dẫn, khuyến khích doanh nghiệp đóng trên địa bàn phối hợp tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động làm việc tại doanh nghiệp; hướng dẫn, khuyến khích cộng đồng dân cư xây dựng và thực hiện tốt hương ước, quy ước - trong đó có tiêu chí không vi phạm pháp luật.
   
Đối với các địa bàn chọn điểm của Trung ương và tỉnh (gồm phường Dĩ An - thị xã Dĩ An và phường Thới Hòa -thị xã Bến Cát), cần chú trọng thêm các hình thức tuyên truyền như: tổ chức ra quân, thông tin lưu động phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường, trật tự an toàn giao thông; xây dựng áp phích bảo vệ môi trường; trật tự an toàn giao thông; xây dựng, in và cấp phát các tờ gấp pháp luật, CD tiểu phẩm pháp luật về môi trường, giao thông đường bộ, phòng chống tội phạm, vi phạm hành chính, hình sự,...
 
    
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đến nhân dân - từng bước giảm vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn trọng điểm
 
Giao Sở Tư pháp là cơ quan Thường trực Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh hướng dẫn, biên soạn và cung cấp tài liệu tuyên truyền hỗ trợ cho các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai, thực hiện Đề án; kiểm tra việc thực hiện Kế hoạch; tham mưu UBND tỉnh báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Tư pháp.
 
Các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh liên quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện Kế hoạch tại các địa bàn trọng điểm về vi phạm pháp luật.
 
 
MỤC ĐÍCH CỦA KẾ HOẠCH
 
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại hai địa bàn chọn điểm của Trung ương và tỉnh là (phường Dĩ An, thị xã Dĩ An; phường Thới Hòa, thị xã Bến Cát) trên cơ sở kế thừa, phát huy kết quả đạt được trong năm 2014 và mở rộng việc triển khai Đề án trên địa bàn tỉnh.
 
Góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân trong lĩnh vực đất đai, môi trường, an toàn giao thông, hình sự, tệ nạn xã hội,…
 
Từng bước giảm số vụ việc và người vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn an ninh trật tự, phát triển kinh tế xã hội ở địa bàn trọng điểm.
 
    
 
Hoài Hương
4/3/2015 8:34 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1219-Tin-chi-dao-dieu-hanhThông tin chỉ đạo, điều hành
Công khai quyết toán thu ngân sách Nhà nước, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2023Công khai quyết toán thu ngân sách Nhà nước, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2023

​TTĐT - UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3688/QĐ-UBND về việc công bố công khai quyết toán thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2023. 

Theo đó, tổng thu NSNN từ kinh tế - xã hội trên địa bàn được quyết toán là 69.500 tỷ đồng, đạt 118% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao và đạt 112% dự toán HĐND tỉnh thông qua, bao gồm: Thu nội địa 53.275 tỷ đồng; thu từ lĩnh vực xuất, nhập khẩu 16.225 tỷ đồng, bằng 80% dự toán Thủ tướng Chính phủ giao và dự toán HĐND tỉnh thông qua; thu ngân sách địa phương được hưởng 28.809 tỷ đồng.

Chi ngân sách địa phương 61.115 tỷ đồng. Trong đó, chi cân đối ngân sách 36.268 tỷ đồng; chi chuyển nguồn cải cách tiền lương, chuyển nguồn tăng thu, tiết kiệm chi 24.840 tỷ đồng; chi nộp ngân sách cấp trên 7 tỷ đồng.

Kết dư ngân sách địa phương 1.004 tỷ đồng, bao gồm: Kết dư ngân sách cấp tỉnh 835 tỷ đồng (trong đó các khoản tạm ứng là 834 tỷ đồng), kết dư ngân sách cấp huyện 77 tỷ đồng, kết dư ngân sách cấp xã 92 tỷ đồng. 

Năm 2023, mặc dù tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, Trung ương áp dụng nhiều chính sách miễn, giảm thuế đã ảnh hưởng lớn đến nguồn thu NSNN của tỉnh.

Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, các địa phương nên thu ngân sách Nhà nước năm 2023 vượt dự toán Thủ tướng Chính phủ giao.

Quyết định số 3688/QĐ-UBND

12/31/2024 9:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, quyết toán thu ngân sách Nhà nước, quyết toán thu, chi ngân sách địa phương năm 2023619-cong-khai-quyet-toan-thu-ngan-sach-nha-nuoc-quyet-toan-thu-chi-ngan-sach-dia-phuong-nam-202Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Người dân và doanh nghiệp tuân thủ quy định phòng, chống dịch Covid-19 theo từng cấp độ dịchNgười dân và doanh nghiệp tuân thủ quy định phòng, chống dịch Covid-19 theo từng cấp độ dịch

TTĐT - ​UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện các biện pháp tạm thời thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, các sở, ban, ngành, đoàn thể; UBND các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống dịch Covid-19, hướng dẫn của Bộ Y tế và chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh. Đồng thời, thực hiện bao vây thu hẹp, kiểm soát chặt "vùng đỏ", mở rộng, bảo vệ "vùng xanh", kiểm soát và ngăn chặn nguồn lây, chuỗi lây nhiễm mới để đưa Bình Dương trở về trạng thái "bình thường mới"; tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành phố để nối lại các chuỗi cung ứng sản xuất, chuỗi cung ứng lao động.

Cùng với đó, triển khai từng bước thận trọng, chặt chẽ, chắc chắn theo phương châm "An toàn tới đâu mở cửa tới đó, mở cửa thì phải an toàn ", "An toàn mới sản xuất, sản xuất phải an toàn"; bám sát tình hình thực tiễn để xem xét áp dụng biện pháp phòng, chống dịch ở "mức cao hơn", "sớm hơn" và không được "chậm hơn" khi xử lý tình huống hoặc nới lỏng giãn cách xã hội phù hợp.

Tiếp tục kiểm soát, điều chỉnh các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19, từng bước nới lỏng giãn cách xã hội theo lộ trình tương ứng với tình hình diễn biến dịch bệnh trên địa bàn tỉnh và kết quả đánh giá mức độ an toàn theo hướng dẫn của Bộ Y tế; trong đó thực hiện nới lỏng giãn cách xã hội phải thận trọng, từng bước với nguyên tắc từ phạm vi nội bộ khu phố, ấp đến liên khu phố, ấp, đến phường, xã; đến liên phường, xã đến huyện, đến liên huyện, thị xã, thành phố; kịp thời xử lý các ổ dịch có thể bùng phát.

Những quy định đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19 theo từng cấp độ dịch (cấp 1, 2, 3, 4) đối với tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp: 

quydinh 1.png

quydinh 2.png

quydinh 3.png

quydinh 4.png

quydinh 5.png

quydinh 6.png

quydinh 7.png

quydinh 8.png

quydinh 9.png

quydinh 10.png

quydinh 11.png

quydinh 12.png

quydinh 13.png

quydinh 14.png

quydinh 15.png

quydinh 16.png


Những quy định đảm bảo phòng, chống dịch Covid-19 theo từng cấp độ dịch (cấp 1, 2, 3, 4) đối với người dân: 

quydinh 17.png 

Sự tham gia, chấp hành, tuân thủ quy định của người dân đóng vai trò quyết định thành công trong phòng, chống dịch. Vì vậy mỗi người dân cần phải luôn thực hiện nghiêm 5K (Khẩu trang - Khoảng cách - Khai báo y tế - Khử khuẩn - Không tụ​ tập đông người); quét mã QR tại các địa điểm đến. Việc đi lại của người dân đến từ các địa bàn có cấp độ dịch khác nhau và công tác điều trị tại nhà đối với người nhiễm Covid-19 thực hiện theo hướng dẫn của ngành Y tế.

Văn bản ​​​​

10/22/2021 7:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtNgười dân, doanh nghiệp, tuân thủ, quy định, dịch Covid-19, cấp độ dịch862-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-tuan-thu-quy-dinh-phong-chong-dich-covid-19-theo-tung-cap-do-dicThông tin chỉ đạo, điều hànhTrueĐoan Trang
534.00
121,000
0.00
121000
0
Triển vọng của xuất khẩu năm 2010Triển vọng của xuất khẩu năm 2010

Năm 2009 là một trong những năm xuất khẩu của Việt Nam không đạt mục tiêu. Tuy nhiên, triển vọng trong năm 2010 sẽ rất sáng sủa cùng với đà phục hồi kinh tế thế giới.

Sau 11 tháng của năm 2009, kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam chỉ đạt 51,4 tỉ USD, dự báo cả năm đạt 56,2 tỉ USD, thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch đặt ra (72 tỷ USD). Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm kim ngạch là bởi thị trường XK bị thu hẹp do ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính thế giới; đơn giá XK hầu hết mặt hàng đều giảm mạnh, có loại giảm đến 15% so với cùng kỳ.
 
Dự báo kim ngạch XK năm 2010 tăng 6%
 
Bộ Công Thương nhận định,  triển vọng phục hồi kinh tế thế giới từ nay đến 2010 sẽ giúp XK của Việt Nam tăng hơn so với 2009. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt khoảng 60 tỷ USD, tăng 6% so với năm 2009.
 
Mặc dù vậy, Thứ trưởng Bộ Công Thương,ông Lê Danh Vĩnh cho rằng trong XK, chúng ta có lợi thế về hàng nông sản, đặc biệt là hàng nông sản nhiệt đới. Chúng ta phải bám lấy lợi thế cạnh tranh này để phát triển. Có thể trong nhiều năm tới, hàng nông sản VN vẫn có lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Lợi thế thứ hai là chúng ta có nhiều lao động trẻ (độ tuổi vàng), đặc biệt là trong những lĩnh vực sản xuất cần nhiều lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Châu Á nên có nhiều lợi thế về địa lý. Với nhiều cảng nước sâu, chúng ta có thể thành lập các khu công nghiệp để sản xuất và XK hàng hoá. Do đó, DN nên tận dụng lợi thế để nâng cao khả năng cạnh tranh với các thị trường XK khác.
 
Bộ Công Thương tiếp tục nỗ lực thúc đẩy XK với trên 200 đề án xúc tiến thương mại (XTTM) trong năm 2010 được phê duyệt với kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ là 250 tỉ đồng, tăng 45% so với thực hiện năm 2009. Bên cạnh đó là việc sắp xếp lại sản xuất, đẩy mạnh các dự án trọng điểm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng hoạt động XTTM; đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp không nên tập trung vào một thị trường mà phải đa dạng hoá thị trường và sản phẩm, phấn đấu để hàng hóa VN vào được thị trường hơn 153 nước thành viên WTO.
 
Để đạt được mục tiêu kim ngạch XK, Bộ Công Thương sẽ tận dụng tối đa những thuận lợi từ các Hiệp định, thỏa thuận kinh tế song phương; xây dựng kênh phân phối một số mặt hàng XK mà Việt Nam có thế mạnh.
 
Ở tầm vĩ mô khác, ông Nguyễn Đức Kiên, Ủy viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đưa ra nhận định: Hiện nhiều quốc gia đã điều chỉnh tốc độ tăng trưởng GDP, tạo cho chúng ta căn cứ để có thể tin tưởng nền kinh tế thế giới trong năm 2010 sẽ hồi phục mạnh hơn. Như vậy, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội đẩy mạnh XK và nâng cao giá trị gia tăng đối với các mặt hàng XK. Vấn đề ở đây không phải là cố gắng để đạt mức tăng 6% mà là cần dự báo để có phương án xử lý chính sách ngoại tệ. Chúng ta phải tính được mức XK và thu được thuế XK là để cân đối năm 2010 sẽ nhập siêu bao nhiêu - đó mới là vấn đề quan trọng.
 
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, hiện nay gói kích thích kinh tế thứ 2 được Chính phủ ban hành với hy vọng sẽ giúp được các doanh nghiệp XK phát triển. Nhưng vấn đề không phải là xuất khẩu bằng mọi giá, mà với số lượng hàng XK như thế nhưng thực hiện hỗ trợ để tăng giá trị gia tăng trên từng sản phẩm. Đó chính là mục đích của Chính phủ.
 
Các mặt hàng XK chủ lực đã sẵn sàng
 
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2010 sẽ là năm “vàng” cho XK gạo bởi nhu cầu của thị trường thế giới tăng cao. Thị trường tốt, giá bán sẽ tăng. Do đó, các doanh nghiệp XK gạo cần liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh; nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm. Được biết, chính sự cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực XK gạo đã khiến trong năm 2009, mặt hàng gạo XK của VN nhiều thời điểm bị ép giá thấp. VFA cho biết, tính đến hết tháng 25/11/2009, Việt Nam đã xuất khẩu được 5,6 triệu tấn gạo, đạt giá trị 2 tỷ 266 triệu USD, tăng 33% về số lượng, nhưng lại giảm 7,7% giá trị so với cùng kỳ năm 2008.
 
Đối với mặt hàng thủy sản XK, tình hình sẽ khó khăn hơn bởi từ 1/1/2010, quy định của EC về hoạt động đánh cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định (IUU) sẽ chính thức có hiệu lực. Đây sẽ là rào cản mới đối với hoạt động XK thuỷ sản của VN (chủ yếu là các sản phẩm đánh bắt từ biển) và có thể tác động không tốt với các doanh nghiệp XK thuỷ sản. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản phối hợp với Cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thuỷ sản hoàn thiện Quy chế chứng nhận thủy sản có nguồn gốc từ khai thác để phổ biến cho doanh nghiệp XK thủy sản và ngư dân. Dự kiến, Quy chế này sẽ sớm được phê duyệt.
 
Về mặt hàng gỗ, Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền cho biết, kim ngạch XK đồ gỗ trong năm 2009 vẫn đạt khoảng 2,7 tỷ USD, chỉ thấp hơn năm 2008 khoảng 100 triệu USD. Từ đầu quý IV/2009 trở lại đây, kim ngạch XK đồ gỗ đã  tăng trưởng trở lại. Năm 2010, Hiệp hội cố gắng phấn đấu đạt giá trị XK sản phẩm gỗ tăng từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD. Theo ông Quyền, đón tín hiệu lạc quan từ thị trường, các doanh nghiệp đã chuẩn bị khá tốt cho năm 2010. Về nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp đã tăng cường sử dụng nguồn gỗ rừng trồng trong nước. Cho đến nay, riêng nguồn cung nguyên liệu gỗ trong nước đã đảm bảo đáp ứng được 30%.
 
Với ngành Dệt may, kết quả tương đối khả quan trong năm 2009 (dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khoảng 1 - 2% so với năm 2008, đạt 9,2 tỷ USD) là động lực để đặt ra kế hoạch năm 2010 đạt khoảng 10,2 - 10,5 tỷ USD. Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã chủ trương yêu cầu các thành viên trong Tập đoàn tăng cường liên kết đưa sản phẩm của DN bạn tiêu thụ tại các thị trường truyền thống của mình nhằm tiết kiệm chi phí XTTM.
 
Mặt hàng cao su XK trong 10 tháng qua đã tăng 2,5% so với năm 2008, lên tới 539.000 tấn, nhưng kim ngạch sút giảm 41,2%, chỉ còn 823 triệu USD. Dự báo, lượng cao su XK của Việt Nam trong năm tới sẽ đạt 700.000 tấn, tăng 17% so với năm 2009 với kim ngạch ước đạt 1,4 tỷ USD./.
Theo Chinhphu.vn
12/9/2009 7:53 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết812-Trien-vong-cua-xuat-khau-nam-2010Thông tin chỉ đạo, điều hành
Bình Dương: nâng cao nhận thức pháp luật cho thanh niênBình Dương: nâng cao nhận thức pháp luật cho thanh niên
TT - UBND tỉnh Bình Dương vừa phê duyệt đề án “Nâng cao nhận thức pháp luật cho thanh niên (TN)” với nguồn kinh phí hơn 4,4 tỉ đồng. Đề án sẽ do Tỉnh đoàn Bình Dương chủ trì triển khai, tập trung thực hiện từ nay đến 2012.
Theo đó, sẽ có 10 nhóm đội hình chuyên với hơn 500 tình nguyện viên được thành lập để xuống tận các chi đoàn, chi hội nhà trọ tuyên truyền pháp luật về môi trường, an toàn giao thông, Luật lao động… Tỉnh đoàn cũng phối hợp với văn phòng luật sư ở các địa phương hỗ trợ tư vấn pháp luật cho ĐVTN công nhân. Đối tượng chính của dự án là TN công nhân, TN nông thôn.
 
Anh Thoa
(Theo Tuổi Trẻ)
3/3/2009 9:47 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1484-Binh-Duong-nang-cao-nhan-thuc-phap-luat-cho-thanh-nienThông tin chỉ đạo, điều hành
Bình Dương: Sản xuất công nghiệp tăng trở lạiBình Dương: Sản xuất công nghiệp tăng trở lại

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Bình Dương đã ổn định và có mức tăng trưởng nhanh trở lại.

Trong hai tháng đầu năm, giá trị sản xuất công nghiệp mà tỉnh Bình Dương thực hiện là hơn 11.100 tỉ đồng, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó riêng tháng 2 tăng 4,6% so với tháng 1 và tăng 41,3% so với cùng kỳ năm trước.
 
Khu vực kinh tế vốn đầu tư trong nước có mức tăng trưởng cao là 10,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nhà nước tăng 11,1% và ngoài nhà nước tăng 10,5%. Một số sản phẩm có mức tăng cao như hạt điều nhân tăng 23%, giày các loại tăng 22,6%, nước sinh hoạt tăng 21,7%, thủy sản chế biến tăng 21,2%...
Ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do một số doanh nghiệp ở các ngành sản xuất hàng may mặc, da giày, lắp ráp ôtô và gia công linh kiện điện tử chưa đi vào sản xuất ổn định nên giá trị sản xuất thực hiện là hơn 7.500 tỉ đồng, chỉ tăng 7,3 % so với cùng kỳ năm trước.
 
Một số sản phẩm có mức tăng khá như mì ăn liền tăng 72,3%, giấy bìa các loại tăng 55,7%, sữa bột tăng 39,6%, thuốc viên các loại tăng 31,5%...
 
Để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tổ chức nhiều cuộc họp nhằm bàn biện pháp tháo gỡ khó khăn, giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của năm.
 
Riêng Tổ công tác kiểm tra, giải quyết hỗ trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn do một Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh phụ trách sẽ tiếp tục theo dõi chặt chẽ, đối thoại với các doanh nghiệp nhằm kịp thời có giải pháp giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, trong đó có việc hệ thống ngân hàng thương mại tại tỉnh triển khai ngay việc cho vay đúng đối tượng được vay với lãi suất ưu đãi theo gói kích cầu của Chính phủ./.

(TTXVN/Vietnam+)

3/2/2009 9:05 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết750-Binh-Duong-San-xuat-cong-nghiep-tang-tro-laiThông tin chỉ đạo, điều hành
Công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong kỳ 2014-2018Công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật trong kỳ 2014-2018

TTĐT - Ngày 01/3/2019, UBND tỉnh Bình Dương đã ban hành Quyết định về việc công bố kết quả hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh Bình Dương trong kỳ hệ thống hóa 2014-2018.

Theo đó, có 466 văn bản của HĐND, UBND tỉnh ban hành còn hiệu lực gồm 114 Nghị quyết, 342 Quyết định, 10 Chỉ thị; có 496 văn bản hết hiệu lực, ngưng hiệu lực toàn bộ gồm 81 Nghị quyết, 315 Quyết định, 100 Chỉ thị; có 43 văn bản hết hiệu lực, ngưng hiệu lực một phần gồm 05 Nghị quyết, 29 Quyết định; có 90 văn bản cần đình chỉ việc thi hành, ngưng hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới gồm 17 Nghị quyết, 72 Quyết định, 01 Chỉ thị.

Quyết địnhDanh mục văn bản quy phạm pháp luật của từng cơ quan, đơn vị.

3/1/2019 4:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiết615-cong-bo-ket-qua-he-thong-hoa-van-ban-quy-pham-phap-luat-trong-ky-2014-201Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalseMai Xuân
205.00
121,000
0.00
121000
24,805,000
Thời gian chi ngân sách phục vụ cho công tác bàn giaoThời gian chi ngân sách phục vụ cho công tác bàn giao

​TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo về việc thời gian chi ngân sách phục vụ công tác đối chiếu, chốt số liệu và chuẩn bị số liệu, sổ sách, hồ sơ, tài liệu về tài chính ngân sách phục vụ cho công tác bàn giao.

Theo đó, về thời gian chi thường xuyên ngân sách, các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện chi ngân sách đến hết ngày 27/6/2025 để chốt số liệu chi. Riêng đối với nội dung chi giải quyết chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo quy định tại Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP đối với trường hợp đã có quyết định nghỉ việc thì tiếp tục thực hiện chi trả đến hết ngày 29/6/2025.

Các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách phối hợp Kho bạc Nhà nước Khu vực XVI hoàn thành việc đối chiếu số liệu trước 16 giờ ngày 28/6/2025 để phục vụ công tác bàn giao.

Về công tác bàn giao tài chính, tài sản, các cơ quan, đơn vị (đơn vị dự toán cấp I) lập biên bản bàn giao, tiếp nhận giữa các bên, kể cả các khoản nợ phải thu, phải trả, các kết luận, kiến nghị của thanh tra, kiểm toán… bảo đảm yêu cầu tuyệt đối không thất thoát nguồn tài chính, ngân sách Nhà nước. Các cơ quan, đơn vị chủ động nghiên cứu các quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước, pháp luật về kế toán và các hướng dẫn sau để thực hiện công tác bàn giao khi sáp nhập tỉnh.

Cấp huyện và các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh tổng hợp số liệu báo cáo gửi về Sở Tài chính trước 16 giờ ngày 28/6/2025.

Trường hợp có phát sinh chi trả chính sách, chế độ theo quy định tại Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP thực hiện chi đến hết ngày 29/6/2024 thì các cơ quan, đơn vị cung cấp lại số liệu báo cáo và giải trình lý do thay đổi, gửi về Sở Tài chính trước 11 giờ ngày 30/6/2025.

Đề nghị Kho bạc Nhà nước khu vực XVI phối hợp với Sở Tài chính, các đơn vị và các địa phương thực hiện kiểm soát chi, xác nhận, đối chiếu số liệu đảm bảo thời gian nêu trên.

Văn bản​​​

6/25/2025 5:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, chi ngân sách phục vụ cho công tác bàn giao657-thoi-gian-chi-ngan-sach-phuc-vu-cho-cong-tac-ban-giaThông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Thành lập Ban Tổ chức Giải chạy Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2025Thành lập Ban Tổ chức Giải chạy Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2025

​TTĐT - UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1244/QĐ-UBND về việc thành lập Ban Tổ chức Giải chạy "Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Bìn​h Dương năm 202​5" (Ban Tổ chức Giải).

Theo đó, Ban Tổ chức Giải gồm: Ông Bùi Minh Trí - Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban; ông Bùi Hữu Toàn - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Trưởng ban Thường trực; ông Nguyễn Thanh Quang - Phó Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương, Phó Trưởng ban; ông Cao Văn Chóng - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Trưởng ban phụ trách chuyên môn.

Các thành viên gồm: Ông Huỳnh Minh Chính - Phó Giám đốc Sở Y tế; ông Nguyễn Văn Phong - Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo; ông Võ Thành Giàu - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường; ông Phan Văn Lam - Giám đốc Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể dục thể thao, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thượng tá Trần Phương Toàn - Phó Trưởng phòng PX03, Công an tỉnh; ông Bùi Thanh Phong - Chánh Văn phòng Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương; ông Bùi Hữu Đại - Trưởng phòng Giải trí Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương; bà Lâm Phương Diệu - Trưởng Phòng Nội dung số kiêm Trưởng Phòng Biên tập chương trình, Đài Phát thanh và Truyền hình Bình Dương; bà Trần Thị Diễm Trinh - Bí thư Tỉnh Đoàn; ông Vũ Văn Hùng - Phó Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ tỉnh.

Ban Tổ chức Giải có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch, điều hành, tổ chức các nội dung hoạt động của Giải đảm bảo hiệu quả, thiết thực, thành công; Ban Tổ chức Giải tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ.

Quyết định số 1244/QĐ-UBND​

5/12/2025 12:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, thành lập Ban Tổ chức Giải chạy Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Bìn​h Dương năm 2025606-thanh-lap-ban-to-chuc-giai-chay-chung-tay-xoa-nha-tam-nha-dot-nat-tren-dia-ban-tinh-binh-duong-nam-202Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Sản xuất công nghiệp và sức tiêu dùng phục hồi mạnhSản xuất công nghiệp và sức tiêu dùng phục hồi mạnh
TTĐT - Mười một tháng đầu năm, ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 
1. Tình hình chung:
 
Tháng 11 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 64.411 tỷ đồng tăng 3,6% so với tháng 10/2009 và tăng 13% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 3,3%, các ngành khác tăng 16,1%). 
 
Tính chung mười một tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 631.871 tỷ đồng tăng 7,3% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,6%, chiếm trọng 24,2% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,4% chiếm tỷ trọng 35,1% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,7% (trong đó dầu khí tăng 9,6%, các ngành khác tăng 7,5%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,4%, công nghiệp địa phương tăng 7,7%.
 
Mười một tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: dầu thô khai thác tăng 13,5%, thuốc lá điếu tăng 12,1%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 17%, xà phòng giặt tăng 19,6%, xi măng tăng 18,5%, thép tròn các loại tăng 18,9%, điều hoà nhiệt độ tăng 46,1%, tủ lạnh, tủ đá tăng 31,4%, điện sản xuất tăng 13%, nước máy thương phẩm tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước.
 
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: than sạch tăng 5,6%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,6%, đường kính tăng 0,3%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2%, lốp ô tô, máy kéo tăng 2,5%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,9%, máy giặt tăng 0,7%, xe máy tăng 7,2%.
 
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí đốt thiên nhiên đạt 99,4 %, khí hóa lỏng (LPG) đạt 88,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,8%, sữa bột đạt 89,3%, bia đạt 99,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 86,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,2%, giày thể thao đạt 94,4%; giấy, bìa các loại đạt 85,9%, phân hóa học đạt 94,8%, sơn hoá học đạt 99,9%, kính thuỷ tinh đạt 93,6%, gạch lát ceramic đạt 93,7%, bình đun nước nóng đạt 84,1%, tivi đạt 93,7%, ô tô đạt 93,4% (trong đó xe tải đạt 93%, xe chở khách đạt 93,8%) so cùng kỳ.
 
Theo vùng lãnh thổ mười một tháng đầu năm 2009 một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 8,6%; Quảng Ninh tăng 12,8%; Thanh Hóa tăng 13%; Khánh Hoà tăng 8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,4%; Bình Dương tăng 9,2%; Đồng Nai tăng 9,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,2%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn trung bình toàn ngành gồm: Hải Phòng tăng 7%; Vĩnh Phúc tăng 2,6%; Hải Dương tăng 4,8%; Phú Thọ tăng 3,4%; Đà Nẵng tăng 5%;
 
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
 
Mười một tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.  
 
Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp (một phần do việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nên tỷ trọng của khối doanh nghiệp này giảm xuống so với toàn ngành); trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
 
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và xuất khẩu, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
 
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 11 giá dầu thô tăng so với các tháng trước (hiện ở mức 77-81 USD/thùng) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (ngày 20/11/2009 xăng A92 tiếp tục tăng lên 16.300 đ/lít, sau khi đã tăng giá lên 15.500 đ/lít vào ngày 24/10/2009), tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam tăng đáng kể (lên mức gần 18.000 đ/USD theo tỷ giá ngân hàng ngày 24/11/2009, trong khi tỷ giá ngoài thị trường tự do lên mức 19.750 đ/USD) tạo áp lực cho các doanh nghiệp cần ngoại tệ để nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng tăng giá hàng hoá (nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu) trên thị trường, giá thép xây dựng do nhà sản xuất tăng lên mức 12 triệu đồng/tấn (thép tại thị trường đã tăng lên mức 12,5-13 triệu đồng/tấn so với mức 11,5-12 triệu đồng/tấn vào tháng trước); giá phân bón đạm urê và phân DAP tăng 500-700 nghìn đồng/tấn (phân urê 6 triệu đồng/tấn, phân DAP 7,2 triệu đồng/tấn) do giá quốc tế tăng nhưng lượng tồn kho trong nước vẫn ở mức cao; giá thức ăn gia súc cũng tăng cao (hiện ở mức 200 nghìn đồng/bao 25 kg, tăng 10.000 đồng so với đầu tháng). Như vậy việc tăng giá hầu hết các mặt hàng sẽ tạo áp lực lên các nhà sản xuất và người tiêu dùng, tăng chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát vào các tháng cuối năm 2009.
 
2. Về xuất nhập khẩu:
 
- Xuất khẩu: 
 
Kim ngạch xuất khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 51,4 tỷ USD giảm 11,4% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 27 tỷ USD giảm 15,5% so cùng kỳ.
 
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu tăng gồm: dầu thô đạt 12,67 triệu tấn tăng 3,1% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 5,77 tỷ USD giảm 41,7%) ; than đá đạt 22,2 triệu tấn tăng 19,8% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 1,17 tỷ USD giảm 11,3%); hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 2,5 tỷ USD tăng 1%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,76 tỷ USD tăng 2,3%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,7 tỷ USD tăng 163,9%; hoá chất và sản phẩm hoá chất đạt 318 triệu USD tăng 0,6%.
 
Một số mặt hàng xuất khẩu giảm gồm: hàng dệt may đạt 8,17 tỷ USD giảm 1,3%; hàng giày dép đạt 3,57 tỷ USD giảm 16%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 661 triệu USD giảm 11,4%; dây và cáp điện đạt 773 triệu USD giảm 17,8%; sản phẩm nhựa đạt 732 triệu USD giảm 13,4%; sắt thép và sản phẩm đạt 829 triệu USD giảm 52,1% (chủ yếu do năm 2008 các doanh nghiệp nhập sắt thép về sau đó tái xuất do nhu cầu trong nước không tăng nhiều vì khủng hoảng).
 
- Nhập khẩu:
 
Kim ngạch nhập khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 61,6 tỷ USD giảm 18% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu 22,4 tỷ USD giảm 13,2% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm nhập siêu ước đạt 10,2 tỷ USD chiếm 19,8% kim ngạch xuất khẩu.
 
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng gồm: xăng dầu các loại đạt 11,86 triệu tấn tăng 0,62%; phân bón đạt 3,92 triệu tấn tăng 35% (trong đó phân urê 1,27 triệu tấn tăng 80,8%); dược phẩm đạt 969 triệu USD tăng 25,7%; nguyên liệu dược phẩm đạt 161 triệu USD tăng 9,5%; chất dẻo nguyên liệu đạt 2 triệu tấn tăng 27,6%; bông các loại đạt 278 nghìn tấn tăng 4,5%; sợi các loại đạt 453 nghìn tấn tăng 19,5%; sắt thép các loại đạt 9 triệu tấn tăng 16,2% (trong đó phôi thép 2,2 triệu tấn tăng 5,8%); máy vi tính và linh kiện điện tử đạt 3,5 tỷ USD tăng 3,2%; cao su 279 nghìn tấn tăng 58,5%; giấy các loại đạt 936 nghìn tấn tăng 12%; ôtô nguyên chiếc đạt 66,3 nghìn chiếc tăng 37%.
 
Một số mặt hàng công nghiệp chủ yếu giảm gồm: hoá chất đạt 1,45 tỷ USD giảm 12%; sản phẩm hoá chất đạt 1,39 tỷ USD giảm 7%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,74 tỷ USD giảm 21%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1,6 tỷ USD giảm 9%; xe máy nguyên chiếc đạt 102 nghìn chiếc giảm 13%; linh kiện xe máy đạt 541 triệu USD giảm 5,3%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 10,6 tỷ USD giảm 10,3% so cùng kỳ.
 
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong mười một tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên liệu sản xuất (hoá chất, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy; nguyên liệu dệt, may, da), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước.
 
Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất tăng như sợi, bông các loại, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
 
Riêng sản phẩm phân bón (đặc biệt là phân urê) có lượng nhập khẩu tăng cao trong khi sản phẩm sản xuất trong nước đang tồn kho cho thấy nhu cầu thị trường tăng cao, đồng thời khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước còn thấp và cần thiết xem xét về hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng này.     
 
Về mặt hàng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc cũng tăng cao cho thấy thị trường trong nước vẫn có nhu cầu lớn trong khi khả năng đáp ứng của các liên doanh lắp ráp xe có hạn.
 
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
 
- Tháng 11/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,25 triệu tấn giảm 4,3% so với tháng 10/2009 và giảm 5,6% so với cùng kỳ (nguyên nhân do sụt giảm sản lượng ở một số mỏ mới đi vào khai thác), lũy kế mười một tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 15,25 triệu tấn tăng 13,5% so với cùng kỳ.
 
- Than đá sản xuất mười một tháng đầu năm ước đạt 38,77 triệu tấn tăng 5,6% so với cùng kỳ, trong đó riêng Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt nam xuất khẩu 21,6 triệu tấn tăng 29,1% so cùng kỳ.
 
- Điện sản xuất mười một tháng đầu năm đạt 73,4 tỷ kwh tăng 13% so với cùng kỳ, đây là mức tăng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp (7,3%), nguyên nhân do nhu cầu điện sinh hoạt vẫn ở mức cao.
 
- Phân hóa học (không tính phân NPK) mười một tháng đầu năm sản xuất ước đạt 2,2 triệu tấn giảm 5,2% so cùng kỳ.  
 
- Thép tròn các loại mười một tháng đầu năm sản xuất đạt 4,2 triệu tấn tăng 18,9% so cùng kỳ.
 
- Xi măng mười tháng đầu năm ước đạt 43,5 triệu tấn tăng 18,5% so cùng kỳ./.
 
4. Giá cả thị trường:
 
Lương thực: Giá lúa gạo nhìn chung tăng. Giá lúa tăng 400đ-600đ/kg so với tháng trước, lúa tẻ thường phổ biến ở mức 4200-6000 tùy loại; lúa OMCS khoảng 4.700đ/kg-4.900đ/kg (tăng 300-500đ/kg), lúa IR 50404 4.200đ/kg- 4.600đ/kg (tăng 600đ/kg), lúa Jasmine mới khoảng 4.900đ/kg-4.300đ/kg (tăng 100-400đ/kg) kéo theo giá gạo tăng khá: gạo Jasmine khoảng 8500-9500/kg (giảm nhẹ 100đ/kg), gạo CLC khoảng 9000-11500đ/kg (tăng 500đ/kg), gạo IR50404 dao động trong khoảng 6500- 7000đ/kg, tăng 300-700đ/kg
 
Thực phẩm: Thịt lợn đứng giá so với tháng trước: lợn hơi khoảng 28.000-31.000đ/kg, giá lợn đùi ở mức 60.000đ/kg; thịt nạc vai 62.000đ/kg, thịt rọi 55.000đ/kg.
 
Các loại thực phẩm khác không nhiều biến động: giá các loại thịt gà, bò, tôm, cá ít biến động: vịt hơi khoảng 18000-20000đ/kg (giảm nhẹ), giá thịt bò khoảng 100.000 ngàn đ/kg (đứng giá), thịt gà hơi 60.000-65000đ/kg (giảm 5000đ/kg); tôm càng xanh khoảng 160 ngàn/kg (đứng giá); cá tra 20000đ/kg (giảm 2.000đ/kg); cá diêu hồng 24.000-25.000 đ/kg (giảm 3.000đ/kg)
 
Rau các loại: Giá các loại rau xanh nhìn chung giảm so với tháng trước: Cải xanh 400đ/kg (giảm 1.000đ/kg); rau cải ngọt 4.500đ/kg (giảm 500đ/kg), rau muống 4.000đ/kg (giảm 1.000đ/kg), xà lách 7.000đ/kg (tăng 2.000đ/kg), hành tươi 10.000đ/kg (tăng 5.000đ/kg), cà chua 6.000đ/kg (giảm 1.000đ/kg).
 
Vật tư nông nghiệp: Giá phân bón trong nước giảm đáng kể: Giá urê Trung Quốc khoảng 5.200đ/kg (giảm 160đ/kg), giá Urê Phú Mỹ sản xuất 5.200đ/kg (giảm 200đ/kg), Urê Liên Xô 6.000đ/kg (đứng giá); phân lân 10.500-11.400đ/kg (đứng giá); phân DAP (Philipin nhập khẩu) 12.200đ/kg (giảm 200đ/kg), DAP Trung Quốc 6.800đ/kg (giảm 200đ/kg)
 
M.X
(Theo Báo cáo của Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
12/1/2009 9:37 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1847-San-xuat-cong-nghiep-va-suc-tieu-dung-phuc-hoi-manhThông tin chỉ đạo, điều hành
Quy định một cửa liên thông giữa cơ quan nhà nước và điện lực trong giải quyết các thủ tục cấp điện qua lưới điện trung áp trên địa bàn tỉnh Bình DươngQuy định một cửa liên thông giữa cơ quan nhà nước và điện lực trong giải quyết các thủ tục cấp điện qua lưới điện trung áp trên địa bàn tỉnh Bình Dương

​TTĐT - UBND tỉnh ban hành Quy định một cửa liên thông giữa cơ quan nhà nước và điện lực trong giải quyết các thủ tục cấp điện qua lưới điện trung áp trên địa bàn tỉnh Bình Dương.

​Theo đó, quy định này áp dụng cho khách hàng sử dụng điện có nhu cầu sử dụng điện đấu nối lưới điện trung áp; tổ chức, cá nhân khác có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc thực hiện thủ tục đầu tư công trình điện chuyên dùng; cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến thực hiện thủ tục đầu tư công trình cấp điện chuyên dùng, bao gồm: Sở Công Thương, Sở Giao thông vận tải, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, UBND các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Ban Quản lý các khu công nghiệp và các cơ quan, đơn vị có liên quan; Công ty Điện lực Bình Dương, Điện lực cấp huyện có liên quan trong việc thực hiện các thủ tục và đầu tư công trình cấp điện chuyên dùng.

Cá nhân, tổ chức mua điện cung cấp hồ sơ đăng ký mua điện và hồ sơ liên quan đế​​n các thủ tục của cơ quan Nhà nước tại Bộ phận một cửa Công ty Điện lực Bình Dương/Điện lực cấp huyện theo các hình thức:

  1. Thông qua Website Chăm sóc khách hàng của Công ty Điện lực Bình Dương; Cổng thông tin dịch vụ công trực tuyến "một cửa điện tử" của tỉnh Bình Dương;

  2. Gọi đến Trung tâm Chăm sóc khách hàng;

  3. Trực tiếp tại trụ sở Công ty Điện lực Bình Dương/Điện lực cấp huyện theo "cơ chế một cửa";

  4. Gửi văn bản (dạng file *.pdf đã phê duyệt) đề nghị yêu cầu dịch vụ.

Cá nhân, tổ chức yêu cầu dịch vụ có thể tra cứu và nhận th​ông tin theo dõi kết quả xử lý tại Website Chăm sóc khách hàng của Công ty Điện lực Bình Dương, hộp thư điện tử và tin nhắn điện thoại (SMS) đăng ký.

​Đối với công trình cấp điện do Công ty Điện lực Bình Dương đầu tư, Công ty Điện lực Bình Dương tổ chức khảo sát thực tế, lập phương án thiết kế, gửi các cơ quan nhà nước giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến tiếp cận điện năng, tổ chức thi công, nghiệm thu đóng điện, ký kết hợp đồng mua bán điện với khách hàng.

Đối với công trình cấp điện do khách hàng tự đầu tư, Công ty Điện lực Bình Dương/Điện lực cấp huyện sẽ phối hợp với khách hàng thực hiện thỏa thuận đấu nối và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ thiết kế, lập hồ sơ, thủ tục với cơ quan nhà nước đúng quy định; đồng thời Công ty Điện lực Bình Dương/Điện lực cấp huyện sẽ chuyển hồ sơ khách hàng đến cơ quan nhà nước giải quyết theo quy định.

​Quyết định ​​

12/18/2019 11:00 AMĐã ban hànhTinXem chi tiếtmột cửa, liên thông, nhà nước, điện lực, thủ tục, lưới điện, trung ápThông tin chỉ đạo, điều hànhFalseĐoan Trang
539.00
0
0.00
0
Điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung TP.Bến CátĐiều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung TP.Bến Cát

TTĐT - ​UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1337/QĐ-UBND về việc điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung thị xã Bến Cát (nay là TP.Bến Cát) đối với khu vực thực hiện dự án Khu Công nghiệp Khoa học Công nghệ Bình Dương Riverside ISC và Khu đô thị Thương mại – Dịch vụ tại phường An Tây và phườ​ng An Điề​n, TP.Bến Cát.​

​​Theo đó, khu vực điều chỉnh thuộc phường An Điền và phường An Tây, TP.Bến Cát; tứ cận tiếp giáp: Phía Đông giáp đường Chính KV.94-38m; phía Tây giáp đường Trục CĐT.01-42m (đường ĐT.744) và đất dân; phía Nam giáp Khu công nghiệp Quốc tế Protrade; phía Bắc giáp đường chính KV.97-30m và đường chính ĐT.08-42m (đường ĐH.606).

Trên cơ sở ranh giới Khu Công nghiệp Khoa học Công nghệ Bình Dương Riverside ISC và Khu đô thị Thương mại – Dịch vụ tại p​hường An Tây và phường An Điền được định hướng tại Quy hoạch tỉnh Bình Dương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 790/QĐ-TTg ngày 03/8/2024, điều chỉnh các nội dung về sử dụng đất, giao thông gồm:

Điều chỉnh vị trí đất ở và đất công nghiệp, trong đó: Đất đơn vị ở điều chỉnh diện tích từ 6.170,89 hecta thành 6.152,67 hecta (giảm khoảng 18,22 hecta); đất công nghiệp điều chỉnh diện tích từ 4.081,46 hecta thành 4.133,75 hecta (tăng khoảng 52,29 hecta).

Điều chỉnh phần đất cây xanh cách ly (diện tích khoảng 35,07 hecta) thành đất công nghiệp.

Điều chỉnh tăng diện tích đất bến xe từ 3,89 hecta thành 4,33 hecta (tăng 0,44 hecta do điều chỉnh tuyến đường chính KV.96-25m).

Điều chỉnh hướng tuyến các tuyến đường giao thông gồm: Đường chính KV.96-25m: Điều chỉnh hướng tuyến của tuyến đường về phía Bắc khoảng 200m để kết nối giao thông với đường trục CĐT.01-42m (đường ĐT.744).

Đường chính KV.93-45m: Điều chỉnh hướng tuyến của tuyến đường ở khu vực phía Bắc để kết nối giao thông với đường chính ĐT.08-42m (đường ĐH.606).

Các nội dung khác không thay đổi, vẫn thực hiện theo Quyết định số 1573/QĐ-UBND ngày 01/7/2022 của UBND tỉnh về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung thị xã Bến Cát (nay là TP.Bến Cát) đến năm 2040.

UBND TP.Bến Cát là đơn vị lập quy hoạch có trách nhiệm tổ chức công bố, công khai nội dung điều chỉnh cục bộ quy hoạch theo quy định hiện hành; chịu trách nhiệm trước pháp luật việc lập hồ sơ điều chỉnh cục bộ quy hoạch theo quy định pháp luật hiện hành; về cung cấp các nội dung, văn bản, số liệu không trung thực, sai lệch làm ảnh hưởng đến kinh tế, kỹ thuật, mỹ thuật của dự án này.

Quyết định số 1337/QĐ-UBND ​​

5/26/2025 5:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, điều chỉnh cục bộ Quy hoạch chung TP.Bến Cát44-dieu-chinh-cuc-bo-quy-hoach-chung-tp-ben-caThông tin chỉ đạo, điều hànhTruePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Triển vọng của xuất khẩu năm 2010Triển vọng của xuất khẩu năm 2010
Năm 2009 là một trong những năm xuất khẩu của Việt Nam không đạt mục tiêu. Tuy nhiên, triển vọng trong năm 2010 sẽ rất sáng sủa cùng với đà phục hồi kinh tế thế giới.
Sau 11 tháng của năm 2009, kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam chỉ đạt 51,4 tỉ USD, dự báo cả năm đạt 56,2 tỉ USD, thấp hơn rất nhiều so với kế hoạch đặt ra (72 tỷ USD). Nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm kim ngạch là bởi thị trường XK bị thu hẹp do ảnh hưởng từ khủng hoảng tài chính thế giới; đơn giá XK hầu hết mặt hàng đều giảm mạnh, có loại giảm đến 15% so với cùng kỳ.
 
Dự báo kim ngạch XK năm 2010 tăng 6%
 
Bộ Công Thương nhận định,  triển vọng phục hồi kinh tế thế giới từ nay đến 2010 sẽ giúp XK của Việt Nam tăng hơn so với 2009. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ đạt khoảng 60 tỷ USD, tăng 6% so với năm 2009.
 
Mặc dù vậy, Thứ trưởng Bộ Công Thương,ông Lê Danh Vĩnh cho rằng trong XK, chúng ta có lợi thế về hàng nông sản, đặc biệt là hàng nông sản nhiệt đới. Chúng ta phải bám lấy lợi thế cạnh tranh này để phát triển. Có thể trong nhiều năm tới, hàng nông sản VN vẫn có lợi thế cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Lợi thế thứ hai là chúng ta có nhiều lao động trẻ (độ tuổi vàng), đặc biệt là trong những lĩnh vực sản xuất cần nhiều lao động. Bên cạnh đó, Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Châu Á nên có nhiều lợi thế về địa lý. Với nhiều cảng nước sâu, chúng ta có thể thành lập các khu công nghiệp để sản xuất và XK hàng hoá. Do đó, DN nên tận dụng lợi thế để nâng cao khả năng cạnh tranh với các thị trường XK khác.
 
Bộ Công Thương tiếp tục nỗ lực thúc đẩy XK với trên 200 đề án xúc tiến thương mại (XTTM) trong năm 2010 được phê duyệt với kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ là 250 tỉ đồng, tăng 45% so với thực hiện năm 2009. Bên cạnh đó là việc sắp xếp lại sản xuất, đẩy mạnh các dự án trọng điểm, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và mở rộng hoạt động XTTM; đồng thời khuyến nghị doanh nghiệp không nên tập trung vào một thị trường mà phải đa dạng hoá thị trường và sản phẩm, phấn đấu để hàng hóa VN vào được thị trường hơn 153 nước thành viên WTO.
 
Để đạt được mục tiêu kim ngạch XK, Bộ Công Thương sẽ tận dụng tối đa những thuận lợi từ các Hiệp định, thỏa thuận kinh tế song phương; xây dựng kênh phân phối một số mặt hàng XK mà Việt Nam có thế mạnh.
 
Ở tầm vĩ mô khác, ông Nguyễn Đức Kiên, Ủy viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đưa ra nhận định: Hiện nhiều quốc gia đã điều chỉnh tốc độ tăng trưởng GDP, tạo cho chúng ta căn cứ để có thể tin tưởng nền kinh tế thế giới trong năm 2010 sẽ hồi phục mạnh hơn. Như vậy, Việt Nam có thể tận dụng cơ hội đẩy mạnh XK và nâng cao giá trị gia tăng đối với các mặt hàng XK. Vấn đề ở đây không phải là cố gắng để đạt mức tăng 6% mà là cần dự báo để có phương án xử lý chính sách ngoại tệ. Chúng ta phải tính được mức XK và thu được thuế XK là để cân đối năm 2010 sẽ nhập siêu bao nhiêu - đó mới là vấn đề quan trọng.
 
Theo ông Nguyễn Đức Kiên, hiện nay gói kích thích kinh tế thứ 2 được Chính phủ ban hành với hy vọng sẽ giúp được các doanh nghiệp XK phát triển. Nhưng vấn đề không phải là xuất khẩu bằng mọi giá, mà với số lượng hàng XK như thế nhưng thực hiện hỗ trợ để tăng giá trị gia tăng trên từng sản phẩm. Đó chính là mục đích của Chính phủ.
 
Các mặt hàng XK chủ lực đã sẵn sàng
 
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2010 sẽ là năm “vàng” cho XK gạo bởi nhu cầu của thị trường thế giới tăng cao. Thị trường tốt, giá bán sẽ tăng. Do đó, các doanh nghiệp XK gạo cần liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh; nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm. Được biết, chính sự cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực XK gạo đã khiến trong năm 2009, mặt hàng gạo XK của VN nhiều thời điểm bị ép giá thấp. VFA cho biết, tính đến hết tháng 25/11/2009, Việt Nam đã xuất khẩu được 5,6 triệu tấn gạo, đạt giá trị 2 tỷ 266 triệu USD, tăng 33% về số lượng, nhưng lại giảm 7,7% giá trị so với cùng kỳ năm 2008.
 
Đối với mặt hàng thủy sản XK, tình hình sẽ khó khăn hơn bởi từ 1/1/2010, quy định của EC về hoạt động đánh cá bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định (IUU) sẽ chính thức có hiệu lực. Đây sẽ là rào cản mới đối với hoạt động XK thuỷ sản của VN (chủ yếu là các sản phẩm đánh bắt từ biển) và có thể tác động không tốt với các doanh nghiệp XK thuỷ sản. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giao cho Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản phối hợp với Cục Quản lý chất lượng nông - lâm sản và thuỷ sản hoàn thiện Quy chế chứng nhận thủy sản có nguồn gốc từ khai thác để phổ biến cho doanh nghiệp XK thủy sản và ngư dân. Dự kiến, Quy chế này sẽ sớm được phê duyệt.
 
Về mặt hàng gỗ, Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, ông Nguyễn Tôn Quyền cho biết, kim ngạch XK đồ gỗ trong năm 2009 vẫn đạt khoảng 2,7 tỷ USD, chỉ thấp hơn năm 2008 khoảng 100 triệu USD. Từ đầu quý IV/2009 trở lại đây, kim ngạch XK đồ gỗ đã  tăng trưởng trở lại. Năm 2010, Hiệp hội cố gắng phấn đấu đạt giá trị XK sản phẩm gỗ tăng từ 8-10% so với năm nay. Hiệp hội sẽ đăng ký với Bộ Công Thương kim ngạch khoảng 3 tỷ USD. Theo ông Quyền, đón tín hiệu lạc quan từ thị trường, các doanh nghiệp đã chuẩn bị khá tốt cho năm 2010. Về nguyên liệu, nhiều doanh nghiệp đã tăng cường sử dụng nguồn gỗ rừng trồng trong nước. Cho đến nay, riêng nguồn cung nguyên liệu gỗ trong nước đã đảm bảo đáp ứng được 30%.
 
Với ngành Dệt may, kết quả tương đối khả quan trong năm 2009 (dự kiến kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khoảng 1 - 2% so với năm 2008, đạt 9,2 tỷ USD) là động lực để đặt ra kế hoạch năm 2010 đạt khoảng 10,2 - 10,5 tỷ USD. Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã chủ trương yêu cầu các thành viên trong Tập đoàn tăng cường liên kết đưa sản phẩm của DN bạn tiêu thụ tại các thị trường truyền thống của mình nhằm tiết kiệm chi phí XTTM.
 
Mặt hàng cao su XK trong 10 tháng qua đã tăng 2,5% so với năm 2008, lên tới 539.000 tấn, nhưng kim ngạch sút giảm 41,2%, chỉ còn 823 triệu USD. Dự báo, lượng cao su XK của Việt Nam trong năm tới sẽ đạt 700.000 tấn, tăng 17% so với năm 2009 với kim ngạch ước đạt 1,4 tỷ USD./.
Theo Chinhphu.vn
12/9/2009 7:53 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết2113-Trien-vong-cua-xuat-khau-nam-2010Thông tin chỉ đạo, điều hành
Sản xuất công nghiệp và sức tiêu dùng phục hồi mạnhSản xuất công nghiệp và sức tiêu dùng phục hồi mạnh

TTĐT - Mười một tháng đầu năm, ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. 

1. Tình hình chung:
 
Tháng 11 năm 2009 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 64.411 tỷ đồng tăng 3,6% so với tháng 10/2009 và tăng 13% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 6,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 17,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 3,3%, các ngành khác tăng 16,1%). 
 
Tính chung mười một tháng đầu năm 2009 GTSXCN ước đạt 631.871 tỷ đồng tăng 7,3% so với cùng kỳ (thấp hơn so với mức kế hoạch đề ra của cả năm là 16,5%), trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 3,6%, chiếm trọng 24,2% toàn ngành; khu vực ngoài quốc doanh tăng 9,4% chiếm tỷ trọng 35,1% toàn ngành; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 7,7% (trong đó dầu khí tăng 9,6%, các ngành khác tăng 7,5%) chiếm tỷ trọng 40,7% toàn ngành. Tính theo cấp quản lý: công nghiệp trung ương tăng 5,4%, công nghiệp địa phương tăng 7,7%.
 
Mười một tháng đầu năm 2009 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng khá (cao hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: dầu thô khai thác tăng 13,5%, thuốc lá điếu tăng 12,1%, giày dép ủng bằng giả da cho người lớn tăng 17%, xà phòng giặt tăng 19,6%, xi măng tăng 18,5%, thép tròn các loại tăng 18,9%, điều hoà nhiệt độ tăng 46,1%, tủ lạnh, tủ đá tăng 31,4%, điện sản xuất tăng 13%, nước máy thương phẩm tăng 9,7% so cùng kỳ năm trước.
 
Một số sản phẩm có tăng trưởng ở mức thấp (thấp hơn mức trung bình toàn ngành) gồm: than sạch tăng 5,6%, dầu thực vật tinh luyện tăng 0,6%, đường kính tăng 0,3%, vải dệt từ sợi tổng hợp tăng 2%, lốp ô tô, máy kéo tăng 2,5%, gạch xây bằng đất nung tăng 1,9%, máy giặt tăng 0,7%, xe máy tăng 7,2%.
 
Các sản phẩm không tăng hoặc giảm so với cùng kỳ có khí đốt thiên nhiên đạt 99,4 %, khí hóa lỏng (LPG) đạt 88,2%, thuỷ hải sản chế biến đạt 92,8%, sữa bột đạt 89,3%, bia đạt 99,6%, vải dệt từ sợi bông đạt 86,7%, quần áo mặc thường cho người lớn đạt 83,2%, giày thể thao đạt 94,4%; giấy, bìa các loại đạt 85,9%, phân hóa học đạt 94,8%, sơn hoá học đạt 99,9%, kính thuỷ tinh đạt 93,6%, gạch lát ceramic đạt 93,7%, bình đun nước nóng đạt 84,1%, tivi đạt 93,7%, ô tô đạt 93,4% (trong đó xe tải đạt 93%, xe chở khách đạt 93,8%) so cùng kỳ.
 
Theo vùng lãnh thổ mười một tháng đầu năm 2009 một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có tăng trưởng cao hơn bình quân toàn ngành gồm: Tp. Hà Nội tăng 8,6%; Quảng Ninh tăng 12,8%; Thanh Hóa tăng 13%; Khánh Hoà tăng 8%; Tp. Hồ Chí Minh tăng 7,4%; Bình Dương tăng 9,2%; Đồng Nai tăng 9,9%; Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 9,9%; Cần Thơ tăng 9,2%. Một số tỉnh thành phố có mức tăng trưởng thấp hơn trung bình toàn ngành gồm: Hải Phòng tăng 7%; Vĩnh Phúc tăng 2,6%; Hải Dương tăng 4,8%; Phú Thọ tăng 3,4%; Đà Nẵng tăng 5%;
 
Một số nhận xét về tình hình sản xuất kinh doanh công nghiệp:
 
Mười một tháng đầu năm ngành công nghiệp tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng đi lên với mức tăng GTSXCN đạt 7,3% (ba tháng tăng 2,1%, bốn tháng tăng 3,3%, năm tháng tăng 4%, sáu tháng tăng 4,8%, bảy tháng tăng 5,1%, tám tháng tăng 5,6%, chín tháng tăng 6,5%, mười tháng tăng 7%) thể hiện việc phục hồi của ngành công nghiệp trước tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.  
 
Về loại hình kinh tế: khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp (một phần do việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước nên tỷ trọng của khối doanh nghiệp này giảm xuống so với toàn ngành); trong khi khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt mức tăng khá so với toàn ngành; phân ngành kinh tế cấp 1, ngành khai khoáng và sản xuất, phân phối điện, nước, gas có tốc độ tăng trưởng khá, trong khi công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng lớn chỉ tăng trưởng ở mức thấp (tuy nhiên mức tăng đã khá so với các tháng trước) do nhu cầu giảm.
 
Về các sản phẩm công nghiệp đáng lưu ý là dầu thô đạt mức tăng khá cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất và xuất khẩu, các sản phẩm xi măng, thép xây dựng tăng cao đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng theo chủ trương kích cầu của Chính phủ. Một số sản phẩm khác như điện sản xuất, giày dép, xà phòng, hàng tiêu dùng (điều hòa, tủ lạnh, tủ đá) cũng đạt tăng trưởng cao thể hiện xu hướng phục hồi của sản xuất và tiêu dùng khu vực dân cư. Phân tích về các chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp cũng cho thấy xu hướng tương tự.
 
Về giá cả các mặt hàng công nghiệp: trong tháng 11 giá dầu thô tăng so với các tháng trước (hiện ở mức 77-81 USD/thùng) tạo điều kiện tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thu ngân sách, tuy nhiên việc giá dầu tăng cao cũng tạo áp lực tăng giá xăng dầu trên thế giới và trong nước (ngày 20/11/2009 xăng A92 tiếp tục tăng lên 16.300 đ/lít, sau khi đã tăng giá lên 15.500 đ/lít vào ngày 24/10/2009), tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam tăng đáng kể (lên mức gần 18.000 đ/USD theo tỷ giá ngân hàng ngày 24/11/2009, trong khi tỷ giá ngoài thị trường tự do lên mức 19.750 đ/USD) tạo áp lực cho các doanh nghiệp cần ngoại tệ để nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng tăng giá hàng hoá (nhập khẩu hoặc sử dụng nguyên liệu nhập khẩu) trên thị trường, giá thép xây dựng do nhà sản xuất tăng lên mức 12 triệu đồng/tấn (thép tại thị trường đã tăng lên mức 12,5-13 triệu đồng/tấn so với mức 11,5-12 triệu đồng/tấn vào tháng trước); giá phân bón đạm urê và phân DAP tăng 500-700 nghìn đồng/tấn (phân urê 6 triệu đồng/tấn, phân DAP 7,2 triệu đồng/tấn) do giá quốc tế tăng nhưng lượng tồn kho trong nước vẫn ở mức cao; giá thức ăn gia súc cũng tăng cao (hiện ở mức 200 nghìn đồng/bao 25 kg, tăng 10.000 đồng so với đầu tháng). Như vậy việc tăng giá hầu hết các mặt hàng sẽ tạo áp lực lên các nhà sản xuất và người tiêu dùng, tăng chỉ số giá tiêu dùng và tỷ lệ lạm phát vào các tháng cuối năm 2009.
 
2. Về xuất nhập khẩu:
 
- Xuất khẩu: 
 
Kim ngạch xuất khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 51,4 tỷ USD giảm 11,4% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất khẩu đạt 27 tỷ USD giảm 15,5% so cùng kỳ.
 
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu tăng gồm: dầu thô đạt 12,67 triệu tấn tăng 3,1% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 5,77 tỷ USD giảm 41,7%) ; than đá đạt 22,2 triệu tấn tăng 19,8% (nhưng về kim ngạch chỉ đạt 1,17 tỷ USD giảm 11,3%); hàng điện tử, vi tính và linh kiện đạt 2,5 tỷ USD tăng 1%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 1,76 tỷ USD tăng 2,3%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm đạt trên 2,7 tỷ USD tăng 163,9%; hoá chất và sản phẩm hoá chất đạt 318 triệu USD tăng 0,6%.
 
Một số mặt hàng xuất khẩu giảm gồm: hàng dệt may đạt 8,17 tỷ USD giảm 1,3%; hàng giày dép đạt 3,57 tỷ USD giảm 16%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 661 triệu USD giảm 11,4%; dây và cáp điện đạt 773 triệu USD giảm 17,8%; sản phẩm nhựa đạt 732 triệu USD giảm 13,4%; sắt thép và sản phẩm đạt 829 triệu USD giảm 52,1% (chủ yếu do năm 2008 các doanh nghiệp nhập sắt thép về sau đó tái xuất do nhu cầu trong nước không tăng nhiều vì khủng hoảng).
 
- Nhập khẩu:
 
Kim ngạch nhập khẩu cả nước mười một tháng đầu năm 2009 ước đạt 61,6 tỷ USD giảm 18% so cùng kỳ, trong đó doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nhập khẩu 22,4 tỷ USD giảm 13,2% so cùng kỳ. Mười tháng đầu năm nhập siêu ước đạt 10,2 tỷ USD chiếm 19,8% kim ngạch xuất khẩu.
 
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu tăng gồm: xăng dầu các loại đạt 11,86 triệu tấn tăng 0,62%; phân bón đạt 3,92 triệu tấn tăng 35% (trong đó phân urê 1,27 triệu tấn tăng 80,8%); dược phẩm đạt 969 triệu USD tăng 25,7%; nguyên liệu dược phẩm đạt 161 triệu USD tăng 9,5%; chất dẻo nguyên liệu đạt 2 triệu tấn tăng 27,6%; bông các loại đạt 278 nghìn tấn tăng 4,5%; sợi các loại đạt 453 nghìn tấn tăng 19,5%; sắt thép các loại đạt 9 triệu tấn tăng 16,2% (trong đó phôi thép 2,2 triệu tấn tăng 5,8%); máy vi tính và linh kiện điện tử đạt 3,5 tỷ USD tăng 3,2%; cao su 279 nghìn tấn tăng 58,5%; giấy các loại đạt 936 nghìn tấn tăng 12%; ôtô nguyên chiếc đạt 66,3 nghìn chiếc tăng 37%.
 
Một số mặt hàng công nghiệp chủ yếu giảm gồm: hoá chất đạt 1,45 tỷ USD giảm 12%; sản phẩm hoá chất đạt 1,39 tỷ USD giảm 7%; nguyên liệu dệt may da đạt 1,74 tỷ USD giảm 21%; linh kiện, phụ tùng ôtô đạt 1,6 tỷ USD giảm 9%; xe máy nguyên chiếc đạt 102 nghìn chiếc giảm 13%; linh kiện xe máy đạt 541 triệu USD giảm 5,3%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 10,6 tỷ USD giảm 10,3% so cùng kỳ.
 
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong mười một tháng đầu năm 2009 giảm chủ yếu là do nhu cầu trong nước giảm cả về nguyên liệu sản xuất (hoá chất, linh kiện phụ tùng ôtô, xe máy; nguyên liệu dệt, may, da), máy móc thiết bị và phụ tùng, hàng tiêu dùng (sản phẩm hoá chất, xe máy nguyên chiếc). Nguyên nhân chủ yếu do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng đến xuất khẩu, sản xuất và tiêu dùng của thị trường trong nước.
 
Tuy nhiên, có một số nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất tăng như sợi, bông các loại, chất dẻo nguyên liệu, sắt thép các loại, phân bón các loại, cao su,... cho thấy nền kinh tế đang có sự dịch chuyển theo chiều hướng tốt.
 
Riêng sản phẩm phân bón (đặc biệt là phân urê) có lượng nhập khẩu tăng cao trong khi sản phẩm sản xuất trong nước đang tồn kho cho thấy nhu cầu thị trường tăng cao, đồng thời khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước còn thấp và cần thiết xem xét về hàng rào bảo hộ đối với mặt hàng này.     
 
Về mặt hàng ôtô nhập khẩu nguyên chiếc cũng tăng cao cho thấy thị trường trong nước vẫn có nhu cầu lớn trong khi khả năng đáp ứng của các liên doanh lắp ráp xe có hạn.
 
3. Tình hình cụ thể một số ngành công nghiệp chủ yếu:
 
- Tháng 11/2009 sản lượng dầu thô khai thác ước đạt 1,25 triệu tấn giảm 4,3% so với tháng 10/2009 và giảm 5,6% so với cùng kỳ (nguyên nhân do sụt giảm sản lượng ở một số mỏ mới đi vào khai thác), lũy kế mười một tháng đầu năm dầu thô khai thác ước đạt 15,25 triệu tấn tăng 13,5% so với cùng kỳ.
 
- Than đá sản xuất mười một tháng đầu năm ước đạt 38,77 triệu tấn tăng 5,6% so với cùng kỳ, trong đó riêng Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt nam xuất khẩu 21,6 triệu tấn tăng 29,1% so cùng kỳ.
 
- Điện sản xuất mười một tháng đầu năm đạt 73,4 tỷ kwh tăng 13% so với cùng kỳ, đây là mức tăng khá cao so với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp (7,3%), nguyên nhân do nhu cầu điện sinh hoạt vẫn ở mức cao.
 
- Phân hóa học (không tính phân NPK) mười một tháng đầu năm sản xuất ước đạt 2,2 triệu tấn giảm 5,2% so cùng kỳ.  
 
- Thép tròn các loại mười một tháng đầu năm sản xuất đạt 4,2 triệu tấn tăng 18,9% so cùng kỳ.
 
- Xi măng mười tháng đầu năm ước đạt 43,5 triệu tấn tăng 18,5% so cùng kỳ./.
 
4. Giá cả thị trường:
 
Lương thực: Giá lúa gạo nhìn chung tăng. Giá lúa tăng 400đ-600đ/kg so với tháng trước, lúa tẻ thường phổ biến ở mức 4200-6000 tùy loại; lúa OMCS khoảng 4.700đ/kg-4.900đ/kg (tăng 300-500đ/kg), lúa IR 50404 4.200đ/kg- 4.600đ/kg (tăng 600đ/kg), lúa Jasmine mới khoảng 4.900đ/kg-4.300đ/kg (tăng 100-400đ/kg) kéo theo giá gạo tăng khá: gạo Jasmine khoảng 8500-9500/kg (giảm nhẹ 100đ/kg), gạo CLC khoảng 9000-11500đ/kg (tăng 500đ/kg), gạo IR50404 dao động trong khoảng 6500- 7000đ/kg, tăng 300-700đ/kg
 
Thực phẩm: Thịt lợn đứng giá so với tháng trước: lợn hơi khoảng 28.000-31.000đ/kg, giá lợn đùi ở mức 60.000đ/kg; thịt nạc vai 62.000đ/kg, thịt rọi 55.000đ/kg.
 
Các loại thực phẩm khác không nhiều biến động: giá các loại thịt gà, bò, tôm, cá ít biến động: vịt hơi khoảng 18000-20000đ/kg (giảm nhẹ), giá thịt bò khoảng 100.000 ngàn đ/kg (đứng giá), thịt gà hơi 60.000-65000đ/kg (giảm 5000đ/kg); tôm càng xanh khoảng 160 ngàn/kg (đứng giá); cá tra 20000đ/kg (giảm 2.000đ/kg); cá diêu hồng 24.000-25.000 đ/kg (giảm 3.000đ/kg)
 
Rau các loại: Giá các loại rau xanh nhìn chung giảm so với tháng trước: Cải xanh 400đ/kg (giảm 1.000đ/kg); rau cải ngọt 4.500đ/kg (giảm 500đ/kg), rau muống 4.000đ/kg (giảm 1.000đ/kg), xà lách 7.000đ/kg (tăng 2.000đ/kg), hành tươi 10.000đ/kg (tăng 5.000đ/kg), cà chua 6.000đ/kg (giảm 1.000đ/kg).
 
Vật tư nông nghiệp: Giá phân bón trong nước giảm đáng kể: Giá urê Trung Quốc khoảng 5.200đ/kg (giảm 160đ/kg), giá Urê Phú Mỹ sản xuất 5.200đ/kg (giảm 200đ/kg), Urê Liên Xô 6.000đ/kg (đứng giá); phân lân 10.500-11.400đ/kg (đứng giá); phân DAP (Philipin nhập khẩu) 12.200đ/kg (giảm 200đ/kg), DAP Trung Quốc 6.800đ/kg (giảm 200đ/kg)
 
M.X
(Theo Báo cáo của Vụ Kinh tế Công nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
12/1/2009 9:37 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết811-San-xuat-cong-nghiep-va-suc-tieu-dung-phuc-hoi-manhThông tin chỉ đạo, điều hành
Báo cáo kết quả thực hiện Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP của Chính phủ  NewBáo cáo kết quả thực hiện Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP của Chính phủ 

TTĐT - ​UBND chỉ đạo phối hợp thực hiện Công văn số 4116/BNV-TCBC ngày 21/6/2025 của Bộ Nội vụ về việc báo cáo kết quả thực hiện Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP của Chính phủ.

Theo đó, yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện giải quyết chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang thuộc thẩm quyền quản lý theo nội dung yêu cầu, tiến độ quy định tại Công văn số 4116/BNV-TCBC ngày 21/6/2025 của Bộ Nội vụ.

Giao Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan, định kỳ thứ hai hàng tuần tổng hợp, báo cáo số lượng người đã nghỉ việc và số người đã hưởng chính sách, chế độ (theo file gửi kèm) và phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện về Bộ Nội vụ (Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo của Chính phủ) để tổng hợp, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tham mưu, đề xuất UBND tỉnh cân đối, bố trí nguồn kinh phí theo hướng dẫn của Bộ Tài chính để kịp thời chi trả chính sách, chế độ đối với các trường hợp đã có quyết định nghỉ việc (nghỉ hưu và nghỉ thôi việc), nhất là những trường hợp đã có quyết định nghỉ theo chế độ từ ngày 01/7/2025 trở về trước.

Văn bản​

6/27/2025 5:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiết168-bao-cao-ket-qua-thuc-hien-nghi-dinh-so-178-2024-nd-cp-va-nghi-dinh-so-67-2025-nd-cp-cua-chinh-phuThông tin chỉ đạo, điều hànhFalseHải Hòa
0.00
0
0.00
Tình hình kinh tế - xã hội năm 2009Tình hình kinh tế - xã hội năm 2009
D52F59958CA34B4E8CB005AF1A789B6A p.MsoNormal, D52F59958CA34B4E8CB005AF1A789B6A li.MsoNormal, D52F59958CA34B4E8CB005AF1A789B6A div.MsoNormal {margin:0in;margin-bottom:.0001pt;font-size:12.0pt;}D52F59958CA34B4E8CB005AF1A789B6A div.Section1 {}Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy...
Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
 
1/1/2010 9:40 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết2014-Tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-nam-2009Thông tin chỉ đạo, điều hành
Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về thành tựu bảo đảm quyền con ngườiĐẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền về thành tựu bảo đảm quyền con người

TTĐT - ​Ban Chỉ đạo về Nhân quyền tỉnh ban hành Kế hoạch triển khai hoạt động tuyên truyền thành tựu bảo đảm quyền con người nhân kỷ niệm 75 năm Ngày Nhân quyền thế giới (10/12/1948 - 10/12/2023).

 

​Công an tỉnh phối hợp với các cơ quan thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng hệ thống lập luận đấu tranh, phản bác các thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng. Chủ động cung cấp thông tin, tài liệu cho các cơ quan thông tấn, báo chí về các vụ việc liên quan đến dân chủ, nhân quyền; hoạt động của các đối tượng cực đoan chống đối trong tôn giáo, dân tộc, chống đối chính trị bị xử lý theo quy định của pháp luật; công tác giam giữ, cải tạo phạm nhân và đặc xá; phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc đón, quản lý các đoàn nước ngoài đến thăm các đối tượng đang chấp hành án phạt tù tại địa phương, đảm bảo các yêu cầu về chính trị, nghiệp vụ, đối ngoại; đẩy mạnh tuyên truyền kết quả thực hiện Công ước Chống tra tấn.

Đồng thời, phối hợp với Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo về Nhân quyền Chính phủ tổ chức hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về thành tựu đảm bảo quyền con người ở Việt Nam và tuyên truyền về chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc đảm bảo quyền con người trên địa bàn tỉnh; qua đó, đấu tranh phản bác các thông tin sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch… 

Định kỳ hàng tháng, tham mưu Ban Chỉ đạo định hướng truyền thông về quyền con người do Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo về Nhân quyền Chính phủ cung cấp.

Kế hoạch​

12/22/2023 10:00 AMĐã ban hànhTinXem chi tiếtĐẩy mạnh, hoạt động, tuyên truyền, thành tựu, bảo đảm, quyền, con người773-day-manh-cac-hoat-dong-tuyen-truyen-ve-thanh-tuu-bao-dam-quyen-con-nguoThông tin chỉ đạo, điều hànhFalseĐoan Trang
344.00
121,000
0.00
121000
0
Bình Dương: Xử lý bàn giao nguồn tài chính ngân sách Nhà nước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp NewBình Dương: Xử lý bàn giao nguồn tài chính ngân sách Nhà nước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp

TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo triển khai thực hiện Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Thông báo số 1181-TB/TU ngày 19/6/2025 về xử lý bàn giao nguồn tài chính ngân sách Nhà nước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp. ​

Giao Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan căn cứ nội dung Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại phiên họp lần thứ 18 về xử lý bàn giao nguồn tài chính ngân sách nhà nước khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp tại Thông báo số 1181-TB/TU ngày 1​9/6/2025 để triển khai thực hiện.

Kết luận của Ban Thường Tỉnh ủy tại phiên họp lần thứ 18 nêu rõ: Thực hiện Kết luận số 167-KL/TW, ngày 13/6/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính, đưa vào hoạt động đồng thời cấp tỉnh, cấp xã từ ngày 01/7/2025, theo đó sẽ kết thúc hoạt động các đơn vị hành chính cấp huyện kể từ ngày trên. Do đó, công tác bàn giao ngân sách cấp huyện là rất cần thiết và cấp bách để tiếp tục tổng hợp làm cơ sở quyết toán ngân sách năm 2025 theo đúng quy định.

Giao Đảng ủy UBND tỉnh lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tài chính phối hợp các sở, ngành, đơn vị, địa phương có liên quan căn cứ các quy định pháp luật về ngân sách, kế toán và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính để triển khai thực hiện, theo hướng tiếp nhận, bàn giao tập trung một đầu mối (Sở Tài chính) đảm bảo chặt chẽ, đúng quy định, không để xảy ra thất thoát ngân sách Nhà nước.

Thống nhất chủ trương thực hiện ngay việc chi trả chế độ chính sách từ tháng 6/2025 cho cán bộ, công chức, người lao động nghỉ hưu trước tuổi hoặc nghỉ việc (đã được cấp có thẩm quyền quyết định) từ ngày 01/7/2025.

Văn bản​

6/27/2025 5:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiết813-binh-duong-xu-ly-ban-giao-nguon-tai-chinh-ngan-sach-nha-nuoc-khi-thuc-hien-mo-hinh-chinh-quyen-dia-phuong-02-capThông tin chỉ đạo, điều hànhFalseHải Hòa
0.00
121,000
0.00
121000
Đón tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Daejeon - Hàn QuốcĐón tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Daejeon - Hàn Quốc
  
TTĐT - Ngày 26-10, UBND tỉnh ban hành Công văn số 3761/UBND-NC về việc “Đón tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Daejeon - Hàn Quốc”.
   
Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất Chương trình tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Daejeon - Hàn Quốc tại tỉnh Bình Dương từ ngày 01/11 đến 03/11/2015.
   
Giao Sở Ngoại vụ chủ trì, phối hợp cùng với Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghiệp (Becamex IDC), Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Tài Chính, Công an tỉnh, Chi hội Doanh nghiệp Đầu tư Hàn Quốc tại Bình Dương và Trường Đại học Quốc tế Miền Đông khẩn trương xây dựng chương trình, kịch bản chi tiết để làm cơ sở triển khai thực hiện.
  
Công an tỉnh phối hợp tổ chức đón, tiễn, hướng dẫn và đảm bảo an toàn cho Đoàn trong thời gian ở thăm và làm việc tại Bình Dương.
   
Sở Tài chính cân đối, giải quyết kịp thời kinh phí đón tiếp Đoàn.
   
Yêu cầu các cơ quan, đơn vị liên quan tập trung chuẩn bị tốt các nội dung để Lãnh đạo tỉnh đón tiếp và làm việc với Đoàn đại biểu cấp cao thành phố Daejeon - Hàn Quốc, đảm bảo trọng thị, chu đáo, an toàn và hiệu quả.
     
  
Lễ ký kết thành lập trung tâm Giao lưu Văn hóa Việt - Hàn giữa tỉnh Bình Dương và thành phố Daejeon
   
Phương Chi
10/26/2015 4:52 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1388-Don-tiep-va-lam-viec-voi-Doan-dai-bieu-cap-cao-thanh-pho-Daejeon-Han-QuocThông tin chỉ đạo, điều hành
Goldman Sachs: GDP của Việt Nam sẽ tăng 8,2% năm 2010Goldman Sachs: GDP của Việt Nam sẽ tăng 8,2% năm 2010

Goldman Sachs đánh giá tích cực về sự phục hồi tăng trưởng, đồng thời chỉ ra những rủi ro trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

Trong báo cáo về kinh tế Việt Nam đề ngày 3/12/2009, ngân hàng Goldman Sachs của Mỹ nhận định, sự phục hồi tăng trưởng của kinh tế Việt Nam từ quý 2/2009 tới nay là kết quả chủ yếu của nhu cầu nội địa.

“Nhờ chương trình kích cầu và chính sách tiền tệ nới lỏng, nền kinh tế Việt Nam đã chống chọi tương đối tốt với những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong quý 3/2009, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái, gần bằng mức tăng trưởng bình quân 5,3% của khu vực châu Á trừ Nhật Bản”, báo cáo viết.
 
Tác giả thực hiện báo cáo, nhà phân tích Hellen Qiao của Goldman cho rằng, tiêu dùng cá nhân của Việt Nam đã phục hồi khỏi mức đáy trong thời gian khủng hoảng, một mặt nhờ tình hình tài chính tốt của các hộ gia đình, mặt khác nhờ tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở mức thấp.
 
Bên cạnh đó, báo cáo của Goldman chỉ rõ, tăng trưởng trong lĩnh vực đầu tư cũng đã khởi sắc, dựa trên gói kích cầu của Chính phủ, mức lãi suất hạ và chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay. “Với sự sa sút của hoạt động đầu tư ở thời điểm cuối năm ngoái, Chính phủ Việt Nam đã vào cuộc, khởi xướng và cung cấp vốn cho nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng… Quan trọng hơn, đầu tư của khối tư nhân (chủ yếu là trong ngành bất động sản) cũng tăng tốc ”, báo cáo nhận định.
 
Goldman cho rằng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với thời kỳ đỉnh cao trước đây.
 
Báo cáo chỉ rõ, thặng dư thương mại của Việt Nam ở thời gian đầu năm là kết quả chính từ sự sụt giảm mạnh của nhập khẩu do nhu cầu nội địa suy giảm. Sau đó, nhu cầu nội địa phục hồi nhanh, kéo theo sự tăng tốc của nhập khẩu giữa lúc xuất khẩu phục hồi chậm, khiến cán cân thương mại của Việt Nam lại rơi vào tình trạng thâm hụt.
 
Bản báo cáo khẳng định, chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam đã thành công, nhưng chuẩn bị đi vào hồi kết.
 
Ở chính sách tài khóa, báo cáo của ngân hàng này cho rằng, mặc dù một phần của chính sách tài khóa mở rộng hiện nay sẽ còn tiếp tục sang năm 2010, tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam so với GDP năm tới sẽ không tăng. Goldman dự báo, thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm nay ít nhất sẽ ở mức 9%.
 
Về chính sách tiền tệ, báo cáo nhận định, sau khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm 2009, nhiều khả năng sang năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ thực hiện thắt chặt chính sách này.
 
“Chúng tôi cho rằng chính sách tiền tệ nới lỏng sắp kết thúc, với việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp thắt chặt như tăng lãi suất hay hút bớt thanh khoản để chống lạm phát trong năm 2010”, chuyên gia của Goldman dự báo.
 
Về chính sách tỷ giá, Goldman dự báo, Việt Nam sẽ duy trì sự giảm giá dần dần của VND so với USD, trừ trường hợp tình hình cán cân thanh toán xấu đi. “Sau lần tăng tỷ giá USD hồi cuối tháng 11, nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ nỗ lực giảm tốc sự mất giá của đồng nội tệ để duy trì niềm tin vào đồng tiền này”, báo cáo có đoạn viết.
 
Song song với việc hoan nghênh những nỗ lực phục hồi kinh tế của Chính phủ Việt Nam, báo cáo của Goldman cũng chỉ ra một số thách thức mang tính chu kỳ mà nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt ở thời điểm hiện nay.
 
Thách thức thứ nhất là những áp lực lạm phát có chiều hướng tăng. Theo báo cáo, tốc độ tăng CPI của Việt Nam hiện nay so với cùng kỳ năm ngoái vẫn thấp, nhưng nếu so tháng trước với tháng sau thì có thể thấy các áp lực lạm phát đã tăng trở lại. Các mặt hàng lương thực và thực phẩm đã đóng góp nhiều nhất vào sự gia tăng của áp lực lạm phát.
 
Thách thức thứ hai mà báo cáo chỉ ra là tình hình thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam. Theo Goldman, song song với thâm hụt thương mại, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam cũng đã giảm xuống. Tuy nhiên, báo cáo cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng, Chính phủ Việt Nam sẽ có đủ khả năng để kiểm soát những rủi ro liên quan tới cán cân thanh toán.
 
Goldman cho rằng, rủi ro đối với nền kinh tế Việt Nam đang đến từ hai phía. Một mặt, sự thành công của chính sách kích cầu, cộng với nhu cầu trong và ngoài nước phục hồi tốt, kéo theo rủi ro lạm phát gia tăng. Mặt khác, nếu các biện pháp thắt chặt được thực hiện “quá tay”, Việt Nam có thể phải đương đầu với nguy cơ suy giảm tăng trưởng cũng như những khó khăn trong cán cân thanh toán.
 
“Năm tới có thể sẽ là một năm quan trọng nữa khi mà các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đối mặt với thách thức trong việc giảm áp lực lạm phát mà không tác động bất lợi tới tăng trưởng. Chúng tôi duy trì quan điểm lạc quan thận trọng về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 2 năm tới trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam nỗ lực đảm bảo một môi trường vĩ mô ổn định để tạo ra sự tăng trưởng bền vững”, báo cáo viết.
 
Theo dự báo mà Goldman đưa ra trong báo cáo lần này, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,1% trong năm nay và 8,2% trong năm 2010./.
 
Theo VnEconomy
12/9/2009 8:02 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết813-Goldman-Sachs-GDP-cua-Viet-Nam-se-tang-82-nam-2010Thông tin chỉ đạo, điều hành
Goldman Sachs: GDP của Việt Nam sẽ tăng 8,2% năm 2010Goldman Sachs: GDP của Việt Nam sẽ tăng 8,2% năm 2010
Goldman Sachs đánh giá tích cực về sự phục hồi tăng trưởng, đồng thời chỉ ra những rủi ro trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay.

Trong báo cáo về kinh tế Việt Nam đề ngày 3/12/2009, ngân hàng Goldman Sachs của Mỹ nhận định, sự phục hồi tăng trưởng của kinh tế Việt Nam từ quý 2/2009 tới nay là kết quả chủ yếu của nhu cầu nội địa.

“Nhờ chương trình kích cầu và chính sách tiền tệ nới lỏng, nền kinh tế Việt Nam đã chống chọi tương đối tốt với những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong quý 3/2009, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm ngoái, gần bằng mức tăng trưởng bình quân 5,3% của khu vực châu Á trừ Nhật Bản”, báo cáo viết.
 
Tác giả thực hiện báo cáo, nhà phân tích Hellen Qiao của Goldman cho rằng, tiêu dùng cá nhân của Việt Nam đã phục hồi khỏi mức đáy trong thời gian khủng hoảng, một mặt nhờ tình hình tài chính tốt của các hộ gia đình, mặt khác nhờ tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ở mức thấp.
 
Bên cạnh đó, báo cáo của Goldman chỉ rõ, tăng trưởng trong lĩnh vực đầu tư cũng đã khởi sắc, dựa trên gói kích cầu của Chính phủ, mức lãi suất hạ và chương trình hỗ trợ lãi suất cho vay. “Với sự sa sút của hoạt động đầu tư ở thời điểm cuối năm ngoái, Chính phủ Việt Nam đã vào cuộc, khởi xướng và cung cấp vốn cho nhiều dự án đầu tư cơ sở hạ tầng… Quan trọng hơn, đầu tư của khối tư nhân (chủ yếu là trong ngành bất động sản) cũng tăng tốc ”, báo cáo nhận định.
 
Goldman cho rằng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với thời kỳ đỉnh cao trước đây.
 
Báo cáo chỉ rõ, thặng dư thương mại của Việt Nam ở thời gian đầu năm là kết quả chính từ sự sụt giảm mạnh của nhập khẩu do nhu cầu nội địa suy giảm. Sau đó, nhu cầu nội địa phục hồi nhanh, kéo theo sự tăng tốc của nhập khẩu giữa lúc xuất khẩu phục hồi chậm, khiến cán cân thương mại của Việt Nam lại rơi vào tình trạng thâm hụt.
 
Bản báo cáo khẳng định, chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam đã thành công, nhưng chuẩn bị đi vào hồi kết.
 
Ở chính sách tài khóa, báo cáo của ngân hàng này cho rằng, mặc dù một phần của chính sách tài khóa mở rộng hiện nay sẽ còn tiếp tục sang năm 2010, tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Việt Nam so với GDP năm tới sẽ không tăng. Goldman dự báo, thâm hụt ngân sách của Việt Nam năm nay ít nhất sẽ ở mức 9%.
 
Về chính sách tiền tệ, báo cáo nhận định, sau khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tăng trưởng kinh tế trong năm 2009, nhiều khả năng sang năm 2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ thực hiện thắt chặt chính sách này.
 
“Chúng tôi cho rằng chính sách tiền tệ nới lỏng sắp kết thúc, với việc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp thắt chặt như tăng lãi suất hay hút bớt thanh khoản để chống lạm phát trong năm 2010”, chuyên gia của Goldman dự báo.
 
Về chính sách tỷ giá, Goldman dự báo, Việt Nam sẽ duy trì sự giảm giá dần dần của VND so với USD, trừ trường hợp tình hình cán cân thanh toán xấu đi. “Sau lần tăng tỷ giá USD hồi cuối tháng 11, nhiều khả năng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ nỗ lực giảm tốc sự mất giá của đồng nội tệ để duy trì niềm tin vào đồng tiền này”, báo cáo có đoạn viết.
 
Song song với việc hoan nghênh những nỗ lực phục hồi kinh tế của Chính phủ Việt Nam, báo cáo của Goldman cũng chỉ ra một số thách thức mang tính chu kỳ mà nền kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt ở thời điểm hiện nay.
 
Thách thức thứ nhất là những áp lực lạm phát có chiều hướng tăng. Theo báo cáo, tốc độ tăng CPI của Việt Nam hiện nay so với cùng kỳ năm ngoái vẫn thấp, nhưng nếu so tháng trước với tháng sau thì có thể thấy các áp lực lạm phát đã tăng trở lại. Các mặt hàng lương thực và thực phẩm đã đóng góp nhiều nhất vào sự gia tăng của áp lực lạm phát.
 
Thách thức thứ hai mà báo cáo chỉ ra là tình hình thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam. Theo Goldman, song song với thâm hụt thương mại, vốn FDI đăng ký vào Việt Nam cũng đã giảm xuống. Tuy nhiên, báo cáo cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng, Chính phủ Việt Nam sẽ có đủ khả năng để kiểm soát những rủi ro liên quan tới cán cân thanh toán.
 
Goldman cho rằng, rủi ro đối với nền kinh tế Việt Nam đang đến từ hai phía. Một mặt, sự thành công của chính sách kích cầu, cộng với nhu cầu trong và ngoài nước phục hồi tốt, kéo theo rủi ro lạm phát gia tăng. Mặt khác, nếu các biện pháp thắt chặt được thực hiện “quá tay”, Việt Nam có thể phải đương đầu với nguy cơ suy giảm tăng trưởng cũng như những khó khăn trong cán cân thanh toán.
 
“Năm tới có thể sẽ là một năm quan trọng nữa khi mà các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đối mặt với thách thức trong việc giảm áp lực lạm phát mà không tác động bất lợi tới tăng trưởng. Chúng tôi duy trì quan điểm lạc quan thận trọng về tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 2 năm tới trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam nỗ lực đảm bảo một môi trường vĩ mô ổn định để tạo ra sự tăng trưởng bền vững”, báo cáo viết.
 
Theo dự báo mà Goldman đưa ra trong báo cáo lần này, kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng 5,1% trong năm nay và 8,2% trong năm 2010./.
 
Theo VnEconomy
12/9/2009 8:02 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1664-Goldman-Sachs-GDP-cua-Viet-Nam-se-tang-82-nam-2010Thông tin chỉ đạo, điều hành
Phối hợp xây dựng các Báo cáo phục vụ Đại hội nhiệm kỳ 2025 – 2030Phối hợp xây dựng các Báo cáo phục vụ Đại hội nhiệm kỳ 2025 – 2030

​TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo đôn đốc phối hợp xây dựng các Báo cáo phục vụ Đại hội đại biểu Đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2025 – 2030.

Theo đó, các sở, ban, ngành căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, khẩn trương gửi báo cáo về Sở Tài chính để tổng hợp, xây dựng báo cáo tổng kết 05 phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 – 2025 theo Công văn số 1743/STC-THQH ngày 16/5/2025 và Công văn số 1805/STC-THQH ngày 20/5/2025 của Sở Tài chính.

Sở Tài chính, Sở Xây dựng, Sở Khoa học và Công nghệ hoàn thiện báo cáo, tham mưu UBND tỉnh tổng kết việc triển khai thực hiện các Chương trình đột phá của tỉnh giai đoạn 2020 – 2025 theo Công văn số 2930/UBND-TH ngày 13/5/2025 của UBND tỉnh.

Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng dự thảo tóm tắt về phương hướng nhiệm kỳ 2025 – 2030 của tỉnh thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh.

Văn bản​​

6/2/2025 12:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, Báo cáo, Đại hội đại biểu Đảng bộ cấp tỉnh nhiệm kỳ 2025 – 2030698-phoi-hop-xay-dung-cac-bao-cao-phuc-vu-dai-hoi-nhiem-ky-2025-203Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Bình Dương: Triển khai Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2025Bình Dương: Triển khai Nghị quyết Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2025

​TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo triển khai Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 08/3/2025 của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2025.

​Theo đó, đề nghị thủ trưởng các sở, ban, ngành và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố căn cứ chức năng, nhiệm vụ thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách khẩn trương rà soát, chủ động triển khai thực hiện các nội dung tại Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 08/3/2025 của Chính phủ; trong quá trình thực hiện có khó khăn, vướng mắc kịp thời báo cáo UBND tỉnh để xem xét, chỉ đạo.

Giao Văn phòng UBND tỉnh theo dõi, đôn đốc với các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện hiệu quả.

Văn bản​​

3/21/2025 10:00 AMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02/2025972-binh-duong-trien-khai-nghi-quyet-phien-hop-chinh-phu-thuong-ky-thang-02-202Thông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Triển khai Quy hoạch vùng Đông Nam bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050Triển khai Quy hoạch vùng Đông Nam bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

​​TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo triển khai thực hiện Quyết định số 1325/QĐ-TTg ngày 04/11/2024 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng Đông Nam bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp cùng các sở, ban, ngành và UBND các huyện, thành phố triển khai thực hiện hoặc tham mưu UBND tỉnh tổ chức thực hiện Quyết định số 1325/QĐ-TTg ngày 04/11/2024 của Thủ tướng Chính phủ.​

Quyết định số 1325/QĐ-TTg ngày 04/11/2024 của Thủ tướng Chính phủ đề ra các nhóm nhiệm vụ trọng tâm: Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm; đi đầu trong phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ cao cấp, chất lượng cao. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại. Xây dựng và phát triển hệ thống đô thị. Phát triển các lĩnh vực xã hội. Quản lý tài nguyên và ứng phó với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế đối ngoại và hợp tác liên kết vùng, nội vùng…

Cụ thể, phát triển mạnh một số ngành công nghiệp: cơ khí chế tạo, hóa dầu, sản phẩm hạ nguồn của ngành công nghiệp hóa dầu, chế biến sản phẩm từ dầu, hóa chất.

Phát triển các khu công nghiệp - dịch vụ - đô thị hiện đại và các khu công nghiệp công nghệ cao. Xây dựng mới một số khu công nghệ thông tin tập trung tại TP.Hồ Chí Minh và hình thành vùng động lực công nghiệp công nghệ thông tin, thu hút đầu tư sản xuất các sản phẩm điện, điện tử, các sản phẩm Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo tại các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Về xây dựng và phát triển hệ thống đô thị: Nâng cao chất lượng đô thị, bảo đảm hiện đại, thông minh và kết nối với các đô thị lớn trong khu vực và trên thế giới; thực hiện đồng bộ các chính sách giải nén, giảm tải cho các đô thị lớn, thúc đẩy phát triển các đô thị vệ tinh; thực hiện hiệu quả mô hình thành phố trực thuộc thành phố; phát triển các khu kinh tế gắn với các đô thị trọng điểm và các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở khu vực đô thị động lực. Nghiên cứu chuyển đổi chức năng các khu công nghiệp, khu chế xuất khi hết thời hạn sử dụng đất, không phù hợp với quy hoạch. Tập trung xây dựng nhà ở để bảo đảm điều kiện sống cho người lao động có thu nhập thấp và lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Về quốc phòng, an ninh: Triển khai đồng bộ các giải pháp thực hiện kết hợp phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh; quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh; quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự trên địa bàn vùng….

Văn bản

11/18/2024 4:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, Quy hoạch vùng Đông Nam bộ321-trien-khai-quy-hoach-vung-dong-nam-bo-thoi-ky-2021-2030-tam-nhin-den-nam-205Thông tin chỉ đạo, điều hànhTruePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
Kế hoạch trao “Giải thưởng Tài năng trẻ Bình Dương năm 2009”Kế hoạch trao “Giải thưởng Tài năng trẻ Bình Dương năm 2009”
Nhằm khen thưởng những gương điển hình thanh thiếu niên tiên tiến, tiêu biểu có thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực học tập, nghiên cứu khoa học, lao động sáng tạo văn hóa - thể thao, Hội đồng quản lý Quỹ Tài năng trẻ tỉnh Bình Dương tổ chức xét và trao “Giải thưởng Tài năng trẻ Bình Dương năm 2009”.
Với các tiêu chuẩn cụ thể, như sau:
- Độ tuổi: Từ 9 - 30, là người Bình Dương, hiện đang sinh sống, làm việc trong tỉnh hoặc đang học tập trong, ngoài tỉnh Bình Dương.
- Học tập: Đạt thứ hạng cao cấp tỉnh, cấp quốc gia, quốc tế tại các kỳ thi tốt nghiệp THPT, thi học sinh giỏi - kể cả thi tay nghề giỏi (thủ khoa đối với kỳ thi trong tỉnh); các kỳ thi đầu vào/tốt nghiệp đại học, sau đại học, cao đẳng.
- Lao động sáng tạo: Có thành tích xuất sắc trong lao động sáng tạo, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật đem lại hiệu quả cao với công trình được công nhận từ cấp tỉnh trở lên.- Văn hóa - Thể thao: Đạt thành tích cao tại các kỳ thi cấp khu vực, cấp quốc gia, cấp quốc tế. Mọi đối tượng hội đủ các điều kiện, tiêu chuẩn trên có thể gửi hồ sơ nhận giải thưởng (bao gồm: báo cáo thành tích, bằng khen, huân huy chương, giấy chứng nhận... và 2 tấm ảnh 4x6) về văn phòng Hội LHTN tỉnh - Tỉnh Đoàn Bình Dương. Thời gian nhận hồ sơ đến hết ngày 10-2-2009.
Dự kiến đợt này Hội đồng quản lý Quỹ Tài năng sẽ trao 10 giải thưởng với trị giá mỗi giải là 10 triệu đồng và được tổ chức vào ngày 21-2-2009.
Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ: Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh theo số điện thoại: 0650.3841621.
(Theo báo Bình Dương)
2/5/2009 7:20 AMĐã ban hànhTinXem chi tiết1721-Tin-chi-dao-dieu-hanhThông tin chỉ đạo, điều hành
Bình Dương: Triển khai quy định Khung năng lực số cho người họcBình Dương: Triển khai quy định Khung năng lực số cho người học

​TTĐT - UBND tỉnh chỉ đạo triển khai thực hiện Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT ngày 24/01/2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy định Khung năng lực số cho người học.

Khung năng lực số cho người học bao gồm 06 miền năng lực với 24 năng lực thành phần, được chia thành 04 trình độ từ cơ bản đến chuyên sâu theo 08 bậc.

Cụ thể, miền năng lực Khai thác dữ liệu và thông tin tập trung vào khả năng tìm kiếm, lọc, đánh giá và quản lý dữ liệu, thông tin, cũng như nội dung số; bao gồm các kỹ năng xác định nguồn thông tin đáng tin cậy, tổ chức dữ liệu một cách hiệu quả, và sử dụng chúng để hỗ trợ ra quyết định hoặc giải quyết vấn đề trong môi trường số.

Miền năng lực Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số nhấn mạnh khả năng sử dụng công nghệ số để tương tác, chia sẻ thông tin, làm việc nhóm và tham gia các cộng đồng trực tuyến; bao gồm các kỹ năng như giao tiếp hiệu quả qua các kênh số, tôn trọng đa dạng văn hóa, quản lý danh tính số và thúc đẩy hợp tác trong môi trường kỹ thuật số.

Miền năng lực Sáng tạo nội dung số tập trung vào khả năng tạo, chỉnh sửa và chia sẻ nội dung số; bao gồm các kỹ năng như phát triển nội dung mới, áp dụng bản quyền và giấy phép, lập trình cơ bản, và tích hợp kiến thức từ nhiều nguồn để tạo ra sản phẩm số phù hợp và sáng tạo.

Miền năng lực An toàn tập trung vào việc bảo vệ dữ liệu, thiết bị, sức khỏe và môi trường số; bao gồm các kỹ năng như bảo mật thông tin cá nhân, quản lý rủi ro mạng, sử dụng công nghệ số an toàn, bảo đảm sức khỏe tâm lý và thể chất khi tương tác trong môi trường số, và thúc đẩy trách nhiệm bảo vệ môi trường kỹ thuật số.

Miền năng lực Giải quyết vấn đề tập trung vào khả năng tư duy phản biện và sáng tạo để xác định, phân tích và giải quyết các vấn đề trong môi trường số, và thúc đẩy trách nhiệm bảo vệ môi trường kỹ thuật số.

Miền năng lực Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tập trung vào việc hiểu, sử dụng và đánh giá các công cụ, hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) có đạo đức và trách nhiệm; gồm các kỹ năng như nhận biết cách AI hoạt động, áp dụng AI vào các nhiệm vụ thực tiễn, đánh giá tác động đạo đức và xã hội của AI, và bảo đảm việc sử dụng AI một cách minh bạch, công bằng, và có trách nhiệm.

UBND tỉnh giao Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông và các cơ quan, đơn vị có liên quan căn cứ các quy định hiện hành, tình hình thực tế của địa phương để tổ chức triển khai thực hiện Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT trên địa bàn tỉnh; tham mưu UBND tỉnh thực hiện những nội dung thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh theo các quy định hiện hành; trong quá trình thực hiện, nếu có khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền, kịp thời tổng hợp, báo cáo, tham mưu UBND tỉnh xem xét, quyết định.

Văn bản​

2/20/2025 2:00 PMĐã ban hànhTinXem chi tiếtBình Dương, Khung năng lực số cho người học479-binh-duong-trien-khai-quy-dinh-khung-nang-luc-so-cho-nguoi-hoThông tin chỉ đạo, điều hànhFalsePhượng Châu
0.00
121,000
0.00
121000
1 - 30Next