Theo đó, phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 10 triệu đồng đối với các hành vi không khai báo, không làm thủ tục xin cấp lại phép tối đa sau 15 ngày kể từ khi thay đổi tên cá nhân, tổ chức được cấp giấy phép hoặc giấy phép bị mất hoặc giấy phép bị hư hỏng. Phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 50 triệu đồng đối với hành vi kê khai thông tin không trung thực để được tham gia đấu giá, thi tuyển quyền sử dụng tần số vô tuyến điện hoặc để được cấp giấy phép sử dụng tần số và quỹ đạo vệ tinh.
Các hành vi đặt ăng - ten thiết bị phát sóng vô tuyến điện sai vị trí hoặc đặt thiết bị phát sóng vô tuyến điện sai địa điểm quy định trong giấy phép sử dụng tần số và thiết bị vô tuyến điện trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; sử dụng sai quy định trong giấy phép về hô hiệu hoặc nhận dạng, giờ hoạt động, quy cách ăng - ten, phương thức phát, hệ tiêu chuẩn, mục đích sử dụng, đối tượng liên lạc; phát vượt quá công suất quy định trong giấy phép sử dụng tần số và thiết bị phát sóng vô tuyến điện hoặc không đảm bảo các quy chuẩn kỹ thuật khác theo quy định của pháp luật đối với thiết bị phát sóng có công suất nhỏ hơn hoặc bằng 150W thì bị phạt tiền từ 500.000 đến 1 triệu đồng. Mức phạt từ 50 triệu đến 70 triệu đồng trên một thiết bị đối với các hành vi sử dụng tần số, quỹ đạo vệ tinh không có giấy phép, sử dụng tần số và thiết bị vô tuyến điện có công suất lớn hơn 10kW không có giấy phép. Phạt tiền từ 70 triệu đồng đến 100 triệu đồng trên một thiết bị đối với hành vi sử dụng băng tần không có giấy phép.
Nghị định cũng quy định, phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 50 triệu đồng đối với một trong các hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện nhưng không có sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Thông tin và Truyền thông; khai báo không trung thực về hồ sơ chuyển nhượng để nhận quyền sử dụng tần số vô tuyến điện. Mức phạt thấp nhất từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với các hành vi không điền đầy đủ vào hợp đồng thuê, mượn thiết bị vô tuyến điện; mức phạt cao nhất là từ 20 triệu đến 30 triệu đồng đối với các hành vi thuê, mượn thiết bị vô tuyến điện như không chấm dứt hợp đồng cho thuê, mượn thiết bị vô tuyến điện khi các bên thuê, mượn không còn nhu cầu thuê, mượn hoặc cá nhân, tổ chức cho thuê, cho mượn, thuê, mượn vi phạm pháp luật và bị áp dụng các hình thức thu hồi giấy phép hoặc đình chỉ hoạt động; không hủy bỏ hợp đồng cho thuê, mượn thiết bị vô tuyến điện trong thời hạn 7 ngày kể từ khi nhận được thông báo yêu cầu hủy bỏ của cơ quan có thẩm quyền; hủy bỏ hợp đồng cho thuê, mượn thiết bị vô tuyến điện nhưng không thông báo bằng văn bản cho Trung tâm tần số vô tuyến điện khu vực.
Mức phạt cảnh cáo, hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng trên một thiết bị hoặc một nguồn nhiễu đối với hành vi không thực hiện đúng các quy chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật về quản lý tương thích điện từ (EMC) đối với các thiết bị vô tuyến điện, thiết bị ứng dụng sóng vô tuyến điện và thiết bị có bức xạ vô tuyến điện gây nhiễu có hại đối với mạng viễn thông công cộng, mạng viễn thông dùng riêng và mạng viễn thông chuyên dùng; kênh, tần số phát sóng phát thanh, truyền hình hoặc thu, phát sóng vô tuyến điện khác. Phạt tiền từ 70 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với một trong các hành vi sử dụng thiết bị gây nhiễu có hại cho thông tin vô tuyến dẫn đường, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh khi đã có yêu cầu ngừng sử dụng thiết bị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; phát hoại cơ sở hạ tầng kỹ thuật vô tuyến điện hoặc cản trở trái pháp luật việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật vô tuyến điện hợp pháp.
Nghị định quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt của Thanh tra chuyên ngành về tần số vô tuyến điện, Thanh tra chuyên ngành khác, UBND các cấp, Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, cơ quan Thuế, cơ quan Quản lý thị trường. Trong đó, Chánh Thanh tra chuyên ngành về tần số vô tuyến điện cấp Bộ có quyền phạt tiền đến mức cao nhất 100.000.000 đồng.
Bên cạnh đó, Nghị định cũng quy định cụ thể việc phân định thẩm quyền xử phạt trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, hay như trong trường hợp xử phạt 1 người thực hiện nhiều hành vi vi phạm.
Nghị định trên có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2011 và bãi bỏ Mục 3 Chương II Nghị định sô 142/2004/NĐ-CP ngày 8/7/2004 của Chính phủ.
Mai Xuân