Phát biểu khai mạc hội thảo, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Lê Bạch Hồng
cho biết, ở Việt Nam, BHYT được xác định là một trong những chính sách
trụ cột của hệ thống an sinh xã hội. Qua hơn 20 năm thực hiện chính sách
BHYT đến nay đã có trên 60 triệu người, chiếm gần 70% dân số cả nước
tham gia BHYT, trong đó toàn bộ người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người
có công, người nghỉ hưu, bảo trợ xã hội và các nhóm yếu thế đều được thụ
hưởng chính sách BHYT. Việt Nam đã xác định lộ trình tiến tới BHYT toàn
dân với mục tiêu bao phủ 80% dân số vào năm 2020.
Tổng Giám đốc nhấn mạnh: trong cơ cấu chi BHYT ở Việt Nam, chi phí về
thuốc chiếm khoảng 60% tổng số tiền chi trả khám, chữa bệnh BHYT. Công
tác quản lý cung ứng và lựa chọn sử dụng thuốc đang tồn tại một số vấn
đề chưa hợp lý. Thị trường thuốc ở Việt Nam với trên 22.000 loại thuốc
đang lưu hành trong khi đó công tác đầu thầu thuốc cũng còn một số hạn
chế, giá thuốc vẫn có sự chênh lệch trên cùng một địa bàn và giữa các
tỉnh thành phố. Tìm giải pháp để công tác quản lý thuốc trong khám, chữa
bệnh BHYT là vấn đề rất được quan tâm và phải sớm thực hiện.
Nhiều khó khăn trong quản lý thuốc KCB BHYT tại Việt Nam
Tại hội thảo, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận các nội dung liên quan
đến chính sách thuốc BHYT ở Việt Nam, thực trạng quản lý, thanh toán
chi phí thuốc BHYT tại Việt Nam.
Theo Phó Vụ trưởng Vụ BHYT, Bộ Y tế, Nghiêm Trần Dũng thuốc điều trị-
không thể thiếu trong KCB, luôn gắn chặt với quyền lợi BHYT, nhưng rất
phức tạp trong quản lý, sử dụng. Chi phí về thuốc, cả tân dược và thuốc
YHCT, ngày càng tăng và luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng chi của
quỹ BHYT. Năm 2010: tổng chi tiền thuốc của quỹ BHYT khoảng 11.564 tỷ
đồng (60% tổng chi KCB của quỹ); năm 2011: khoảng 15.568 tỷ đồng – 61,3%
tổng chi của quỹ; tăng 34,6% so với năm 2010; Năm 2012: khoảng 19.561
tỷ đồng - 60,6% tổng chi của quỹ; tăng 4 ngàn tỷ so với 2011. Công tác
quản lý thuốc vẫn còn nhiều vấn đề như: khó khăn để lựa chọn thuốc trong
danh mục thuốc BHYT, nhất là với thuốc YHCT; Cung ứng vẫn còn nhiều
hình thức đấu thầu khác nhau, giá thuốc cũng khác nhau do cơ chế đấu
thầu mua sắm….
Về vấn đề quản lý, thanh toán chi phí thuốc BHYT, báo cáo của Ban Dược
và Vật tư y tế, BHXH Việt Nam cho thấy một số kết quả đạt được như: đã
kiểm soát giá thuốc, lựa chọn và cung ứng thuốc; Giá thuốc trúng thầu
giảm; Chênh lệch giá thuốc giữa các địa phương, hội đồng đã được thu hẹp
lại; Tổ chức đấu thầu: xu hướng đấu thầu tập trung nên cung ứng thuốc
kịp thời hơn, đặc biệt các tỉnh địa bàn rộng; Kiểm soát sử dụng thuốc
hợp lý;… Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn trong hạ tầng công nghệ thông
tin hỗ trợ quản lý, thanh toán, Danh mục thuốc quá lớn, phức tạp, Vẫn
còn một số thuốc có chi phí điều trị quá lớn/1 người bệnh, chưa phù hợp
giữa chi phí- hiệu quả, khả năng chi trả của quỹ BHYT,…
Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị sử dụng thuốc generic
Chuyên gia, cố vấn y tế từ Cơ quan đảm bảo xã hội và quốc tế Pháp và WHO
chia sẻ tại hội thảo nhiều thông tin liên quan đến hệ thống BHYT và
công tác quản lý giá thuốc tại Pháp và một số quốc gia trên thế giới.
Tại Pháp, việc tham gia BHYT do luật quy định và trên 90% dân số Pháp
tham gia BHYT; Quỹ BHYT quốc gia của Pháp bao gồm 03 quỹ chính (dành cho
lao động làm công ăn lương, lao động nông nghiệp, lao động tự do);
Chương trình chăm sóc y tế sức khỏe toàn dân (CMU) từ năm 2000: cho các
bệnh nhân không có bảo hiểm và những người có thu nhập dưới mức quy
định. 92% dân số tham gia BHYT bổ sung. Các dịch vụ y tế được cung cấp
bao gồm: Điều trị bệnh viện, dịch vụ cấp cứu, các loại thuốc kê đơn ;
Với các thuốc kê đơn: tỷ lệ đồng chi trả tùy thuộc vào giá trị điều trị.
Có 30 loại bệnh mạn tính được BHYT quốc gia chi trả 100%.
Quy trình cấp giấy phép, chi trả, đấu thầu thuốc tại Pháp được thực hiện
qua 02 bước cơ bản, bao gồm: Đánh giá kỹ thuật và Quyết định phạm vi
chi trả BHYT và mức giá thuốc. Bước 1, Đánh giá kỹ thuật (chất lượng
thuốc) do Hội đồng Minh bạch (một trong số các hội đồng khoa học của Cơ
quan y tế cao cấp Pháp) thực hiện. Trên cơ sở kết quả từ Hội đồng Minh
bạch đưa ra, Uỷ ban định giá thuốc xác định mức chi trả và mức giá
thuốc, sau đó cơ quan cấp Bộ ra quyết định chính thức. Hệ thống quản lý
của Pháp được đánh giá khá hiệu quả, kiểm soát thuốc tốt hơn trong vài
năm qua. Tuy nhiên chi phí thuốc vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong chi tiêu y
tế, một số thuốc vẫn có giá rất cao.
Tại các quốc gia OECD, chi phí thuốc đã tăng hơn 50% trong 10 năm qua và
là cấu phần chiếm chi phí lớn nhất trong việc chăm sóc y tế. Các tổ
chức y tế đang đưa ra những sáng kiến để 'tối ưu hóa quản lý' các thuốc
mới có giá cao. Các quốc gia châu Âu đang học tập nhau về cách duy trì
hệ thống CSYT công bằng và toàn diện – nếu không các nước này sẽ gặp rất
nhiều khó khăn.
Các chuyên gia của Tổ chức y tế thế giới (WHO) trao đổi kinh nghiệm quản
lý chi trả thuốc BHYT; kinh nghiệm quản lý chi trả thuốc có chi phí cao
(trọng tâm là các loại thuốc điều trị ung thư) tại một số nước như Thuỵ
Điển,Áo, Anh…
Các chuyên qua quốc tế rất chú trọng đến việc sử dụng thuốc generic.
Thuốc generic là thuốc đã hết hạn về bản quyền nên có chi phí rất thấp.
Tại Pháp thuốc generic chiếm 24% thị trường thuốc được thanh toán BHYT
dành cho điều trị ngoại trú, thuốc generic trong tổng doanh số thuốc
được thanh toán BHYT tăng từ 13,3% năm 2011 lên 15,7%; 109/352 nhóm
thuốc điều trị có thuốc generic (năm 2002 là 64 loại). Những cải cách
gần đây ở Thụy Điển nhằm thúc đẩy sử dụng thuốc hợp lý có thay thế bằng
thuốc generic. Thuốc được định giá dựa trên giá trị và được giám định
chi trả một cách chặt chẽ. Ở Philippin có hẳn Luật bắt buộc sử dụng
thuốc generic...
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Lê
Tuấn cho rằng: những thông tin chia sẻ của các chuyên gia quốc tế sẽ là
những kinh nghiệm rất tốt cho Việt Nam để công tác quản lý thuốc nói
chung và thuốc BHYT nói riêng được chặt chẽ, hiệu quả hơn. Trước mắt,
một số việc chúng ta có thể sẽ làm ngay như đánh giá lại chất lượng hiệu
quả của các loại thuốc mới, rà soát lại danh mục thuốc, thành lập các
hội đồng thực hiện việc tư vấn có chuyên môn cao cùng tham gia vào quá
trình quản lý sử dụng thuốc…